1/ Brazil chuyển sang Robusta | Năng suất nông sản Ấn Độ giảm | Dollar tiếp tục ăn Yuan | Chứng khoán Châu Á ì ạch bởi Delta  

  • Tuần rồi, Khô hạn kéo ở Nam Mỹ do biến đổi khí hậu, khiến những lãnh đạo ngành Cà phê tại Brazil dần chuyển sang trồng nhiều hạt Robusta hơn là giống Arabica, vốn kém sức chịu đựng hơn trong cái khô nóng hiện tại đang diễn ra ở đây.

  • Ngày 12 tháng 8, mưa mùa kém hơn dự đoán trong tình hình biến đổi khí hầu theo chiều hướng nóng lên toàn cầu, dẫn đến dự báo về sự suy giảm năng suất của bông Cotton, đậu Tương/đậu Nành, Bắp, cũng như Lúa gạo.

  • Thượng Hải ngày 18 tháng 8, đồng Nhân dân tệ Yuan nhỉnh hơn đồng Bạc xanh Dollar 1 chút (0,23%). Tuy nhiên, giới đầu cơ vẫn giữ vững niềm tin vào đồng Dollar trước thềm tuyên bố về những động thái tiếp theo trong chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương Mỹ (Fed). Bên cạnh đó, những hành động siết chặt nhiều ngành nghề – tiêu biểu là mảng Công nghệ của chính phủ Bắc Kinh, khiến giới đầu tư ngày một e ngại, như dầu đổ vào lửa khi biến chủng Covid-19 Delta vẫn còn lan rộng và tàn phá nền kinh tế Châu Á

  • Ngày 18 tháng 6 tại thị trường chứng khoán Hongkong, các mã tăng nhẹ sau 3 tuần giảm thấp liên tiếp (thêm 0,73%) – do ảnh hưởng của chủng Delta. Tuy nhiên, các mã Blue chips của Trung Quốc vẫn tăng thêm 0,86%, tương tự thêm 0,89% tại Hàn Quốc và thêm 0,69% tại Nhật Bản (sau đà giảm nhiều phiên liên tiếp). Sự ảnh hưởng của chủng Covid-19 Delta tồi tệ đến nỗi Ngân hàng trung ương New Zealand không dám tăng lãi suất trần

Nguồn: Reuters

2/ Ngày mua sắm trực tuyến ASEAN hút 9.300 người

Từ 08/08 đến 10/08/2021, web ASEAN Online Sale Day 2021, www.onlineasean.com ghi nhận 9.300 người dung và 35.000 truy cập, hơn 400% so với chương trình thử nghiệm 2020. Trong đó, người dùng tại Philippines chiếm 50.17%, tiếp đến là người dùng tại Indonesia, Malaysia, Việt Nam và Singapore.

Chương trình ASEAN Online Sale Day 2021 đã có hơn 300 doanh nghiệp của 10 nước thành viên tham gia cung cấp dịch vụ, hoạt động mua sắm cho người tiêu dùng trong và ngoài nước. Các ngành hàng được chia ra trong Chương trình bao gồm sàn thương mại điện tử, hàng thủ công, điện máy – đồ gia dụng, nội thất, thời trang, dịch vụ, du lịch, dịch vụ ăn uống (F&B) và một số ngành hàng khác. Trong đó, các ngành hàng thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia là F&B, đồ nội thất và thời trang. Chương trình thu hút được nhiều doanh nghiệp uy tín tại các thị trường thành viên trong khối ASEAN như Qafa Haus (Brunei Darusalam), Zalora, Madalagos Chocolate (Philippines), Alibaba, Lazada (Malaysia), Pazzion, Escala Fashion, Shopee (Singapore). Bên cạnh những sàn TMĐT lớn quen thuộc như Shopee, Sendo, Voso, Fado, Chương trình thu hút gần 150 doanh nghiệp tham gia bán hàng tại thị trường Việt Nam.

Nguồn: Bộ Công Thương

3/ Giá phân bón tăng dựng đứng?

Theo tính toán của Bộ Công Thương, từ đầu 2021, giá phân bón trong nước đã tăng trung bình 50 – 73%.

Theo ông Nguyễn Văn Thanh, Cục trưởng Cục Hóa chất (Bộ Công Thương), mỗi năm nước ta sử dụng trên 10 triệu tấn phân bón, trong đó 7,6 triệu tấn phân bón vô cơ và 2,63 triệu tấn phân bón hữu cơ. Tổng công suất đăng ký của các nhà máy phân bón trong nước vào khoảng 29,25 triệu tấn.Tuy nhiên, lượng nhập khẩu thường lớn hơn so với xuất khẩu.

Tương tự, ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cả nước có 841 nhà máy sản xuất phân bón, công suất gần 30 triệu tấn/năm – công suất sản xuất của chúng ta gấp 3 lần so với nhu cầu tiêu thụ.

Từ tháng 7/2020 đến nay, giá phân bón có chiều hướng tăng cao, có sản phẩm tăng trên 80%. Nguyên nhân là giá nông sản thế giới liên tục tăng, kết hợp với tình hình thời tiết thuận lợi đã thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Trong khi phí vận tải trong nước và thế giới, nhất là cước tàu biển tăng mạnh góp phần thúc đẩy giá phân bón.

Chia sẻ thêm, ông Bùi Thế Chuyên cho rằng chi phí sản xuất cũng là một vấn đề. Ông Chuyên cho hay chi phí sản xuất phân bón 7 tháng đầu năm tăng rất cao như lưu huỳnh tăng 170%, amoniac tăng gấp 2 lần… khiến giá đầu vào tăng.

Cùng với đó là sự gia tăng của chi phí vận chuyển và những tác động tiêu cực đến từ đại dịch COVID-19“, ông Chuyên nói.

Nguồn: Báo điện tử VTC News

Phân bón dư nguồn cung song giá bán liên tục tăng phi mã. (Ảnh: Đạm Cà Mau).

4/ Báo Mỹ: may mặc của Việt Nam đang nhiều lợi thế

Theo công cụ phân tích thị trường TexPro của Fibre2Fashion, xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam đạt 31,48 tỷ USD vào năm 2019, nhưng đến năm 2020 còn 28,59 tỷ USD (giảm 9,19%) do đại dịch Covid-19. Trong nửa đầu năm 2021, xuất khẩu đạt 14,96 tỷ USD so với mức trung bình hàng tháng là 2,49 tỷ USD, tăng 4,65% so với mức trung bình hàng tháng vào năm 2020.

Hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã giúp Việt Nam thúc đẩy thương mại trong bối cảnh đại dịch.

Theo đánh giá của tổ chức Economist Intelligence Unit (EIU), Việt Nam đã vượt qua Ấn Độ và Trung Quốc trong một số khía cạnh thương mại như chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và kiểm soát ngoại thương và hối đoái.

Hiện nay, một số nguyên liệu được nhập từ Ấn Độ, Hàn Quốc và các nước châu Âu dù chất lượng và giá cả không bằng hàng Trung Quốc.

Việt Nam có nhiều lợi thế so với Bangladesh. Sản phẩm áo phông của ta mang lại lợi nhuận cao hơn gần gấp đôi so với áo phông sản xuất tại Bangladesh. Trong khi may mặc Việt Nam đã đạt được sự đa dạng hơn. Thời gian sản xuất của Việt Nam chỉ xấp xỉ 1/3 thời gian sản xuất của Bangladesh. Việt Nam cũng có vị trí gần với các nhà cung cấp nguyên liệu thô lớn như Trung Quốc.

Hiệp định thương mại tự do Anh-Việt Nam (UKVFTA, chính thức có hiệu lực vào ngày 1/5/2021) có thể thúc đẩy hơn nữa xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang Anh. FTA này sẽ xóa bỏ gần như toàn bộ thuế hải quan giữa hai nước khi được thực thi hoàn toàn.

Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) đã đề xuất lên chính phủ về việc ưu tiên tiêm vaccine cho công nhân dệt may và đã đề nghị được mua vaccine trực tiếp từ các nhà cung cấp. Nhiều nhà sản xuất hàng may mặc của Việt Nam đang phải vật lộn để thu hồi số tiền mà các công ty Mỹ nợ.

Nguồn: Báo Quốc Tế

5/ Á ùn ứ nông sản, Âu lo khan hiếm

Khi tình hình COVID-19 phức tạp ở các nước châu Á, công ty chúng tôi đã dự kiến đặt hàng rất nhiều so với thời điểm trước đây. Công ty cũng đang theo dõi thường xuyên về giá cước vận tải. Nhưng hiện nay điều quan trọng không phải là cước vận tải nữa, mà quan trọng là phải có chỗ đi hàng cho kịp cung ứng dịp cuối năm“, ông Phạm Văn Hiển – Giám đốc công ty LTP Import Export B.V. (Hà Lan) cho biết.

Tại châu Âu, giá cả nông sản châu Á đang tăng. Nên doanh nghiệp nhập khẩu một mặt phải cố gắng tăng đặt hàng tối đa khi còn có thể, mặt khác hạn chế lượng hàng bán ra.

Ông Phạm Văn Hiển cho hay: “Hiện tại, công ty cũng đang áp dụng biện pháp phân phối hàng, điều tiết hàng theo mức độ hợp lý. Ví dụ cho khách hàng đặt 100 thùng, công ty có thể cung ứng được 50, trong thời gian chờ các container qua“.

Hàng hoá vừa cập cảng châu Âu là những lô được bốc xếp lên tàu biển cách đây khoảng 1 tháng, trước khi đại dịch bùng phát ở châu Á. Hiện tại, ở các cửa hàng bán lẻ, mọi chuyện vẫn tương đối bình thường, lượng hàng lưu kho vẫn đủ cho khoảng 3 tháng bán hàng nhưng 2 tháng nữa nếu nguồn cung vẫn chưa tái lập sẽ là vấn đề lớn.

Ông Trần Tiến Minh – Chủ cửa hàng Xuân Minh, Vương quốc Bỉ cho biết: “Trên thực tế là có sợ thiếu hàng. Tại tôi sợ vấn đề dịch bệnh diễn ra dài lâu. Mặt hàng ảnh hưởng nặng nhất đó là bánh phở, bún, bánh hỏi, hàng đông lạnh, hàng tươi sống, rau củ quả. Ở Việt Nam ngưng trệ là ở bên này cũng bị ngưng trệ. Thái Lan, Indonesia ngưng trệ, bên này cũng bị ngưng trệ. Tình hình ảnh hưởng chung, không riêng của một quốc gia nào“.

Nguồn: Báo điện tử VTV

6/ RCEP tạo ổn định nguồn cung năng lượng khu vực

Theo Bộ Thương mại Trung Quốc, các thành viên của RCEP sẽ loại bỏ thuế quan thương mại cho nhau trong vòng 10 năm tới và thuế quan đối với một số mặt hàng sẽ được xóa bỏ ngay lập tức. Tổng cộng, hơn 90% hàng hóa giao dịch trong khối RCEP sẽ được miễn thuế. Các chuyên gia cho biết, khi các thành viên RCEP giải quyết chi tiết trong các cuộc đàm phán thương mại, nhập khẩu một số mặt hàng năng lượng của Trung Quốc sẽ tăng lên, điều này có lợi cho các nhà xuất khẩu trong khối như Nhật Bản và Hàn Quốc.

Ví dụ, về LCO, Hàn Quốc hiện là nguồn nhập khẩu lớn nhất của Trung Quốc, với mức thuế nhập khẩu 4,2%. Trung Quốc cũng nhập khẩu một lượng lớn LCO từ Nhật Bản với mức thuế 7%. Nhập khẩu LCO từ các quốc gia đó sẽ tăng một khi thuế quan được giảm hoặc thậm chí loại bỏ theo khuôn khổ RCEP.

Các chuyên gia cũng dự đoán rằng, nhập khẩu dầu gốc của Trung Quốc sẽ tăng “rõ rệt”, với chi phí nhập khẩu được giảm xuống. Hiện tại, Trung Quốc nhập khẩu khoảng 70% dầu gốc từ Hàn và Singapore. Tuy nhiên, tác động của RCEP đối với thương mại dầu thô của Trung Quốc là hạn chế, vì các nước ASEAN không phải là nguồn nhập khẩu dầu thô chính của Trung Quốc. Hiện tại, Malaysia là nhà xuất khẩu dầu thô lớn nhất của Đông Nam Á sang Trung Quốc, chiếm khoảng 2,5% tổng lượng dầu thô nhập khẩu hàng năm của Trung Quốc.

Công ty Sublime China Information Co cho rằng, việc ký kết RCEP sẽ không gây ra thay đổi lớn đối với nhập khẩu khí đốt tự nhiên của Trung Quốc vì cả khí đốt đường ống và khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) đều đã được miễn thuế nhập khẩu.

Indonesia và Malaysia là những nhà xuất khẩu LNG lớn và thỏa thuận RCEP sẽ ổn định nhập khẩu LNG của Trung Quốc trong những tháng tới.

Nguồn: Báo Công Thương

7/ Chống dịch không có nghĩa là bỏ qua EVFTA

Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) – ông Lương Hoàng Thái cho rằng, “Việc Việt Nam tham gia vào một trong những hiệp định thương mại thế hệ mới như EVFTA với một đối tác lớn như EU đã tạo ra cho Việt Nam nhiều cơ hội tiếp cận với nhiều lĩnh vực tiềm năng, đi kèm với mức độ áp dụng công nghệ cao. Việc hợp tác với EU trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao là lĩnh vực tiềm năng mà Việt Nam có thể nhận được sự chuyển giao giải pháp công nghệ, sản xuất chế biên nông sản, thực phẩm. EVFTA và EVIPA là cơ hội để Việt Nam còn có thể tiếp cận được tiềm năng về vốn, công nghệ của EU”.

Tuy nhiên, kết quả Chỉ số môi trường kinh doanh EuroCham (Business Climate Index – BCI) mới nhất cho thấy, gần 2/3 số công ty cho biết đã được hưởng lợi từ EVFTA. Liên quan tới thủ tục hành chính và hàng rào kỹ thuật thương mại.

Chống dịch song hành với tận dụng lợi thế

Chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) – Alain Cany cho rằng, hiện tại các nước trên thế giới đều đang tập trung chống lại đại dịch Covid-19. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta bỏ qua EVFTA. Thực tế cho thấy, Hiệp định đang trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, khi tiêm chủng được triển khai và dịch được kiểm soát, các nền kinh tế sẽ phục hồi.

Thời gian tới, tình hình dịch bệnh có khả năng diễn biến phức tạp, kéo dài, các biện pháp phong tỏa còn hiện diện từ đó làm suy giảm nghiêm trọng nguồn lực của DN, ảnh hưởng đến việc đối mới công nghệ, cải thiện chất lượng sản phẩm, năng suất lao động… khiến việc tận dụng hiệu quả các cam kết của EVFTA trở nên khó khăn hơn.

Nguồn: CafeF

8/ Xuất khẩu nông sản, thủy sản sang Algeria và Senegal

Ngày 11/8, Cục Xúc tiến thương mại – Bộ Công Thương và Thương vụ Việt Nam tại Algeria kiêm nhiệm Senegal, Tunisia, Mali, Gambia và Niger đã tổ chức Phiên tư vấn xuất khẩu sang thị trường Algeria và Senegal cho hơn 100 doanh nghiệp Việt Nam.

Tại sự kiện, ông Hoàng Đức Nhuận, Tham tán thương mại đã giới thiệu về tiềm năng của thị trường Algeria và Senegal, đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nông sản và thủy sản, cũng như những lưu ý về tìm kiếm, giao dịch và thanh toán với các đối tác tại hai thị trường này, đồng thời giải đáp các thắc mắc của các doanh nghiệp tham dự.

Đối với Algeria, ông Hoàng Đức Nhuận cho biết hàng hóa Việt Nam có nhiều điểm thuận lợi khi xuất khẩu sang thị trường này, do Algeria chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp dầu lửa, nên phải nhập khẩu khá nhiều mặt hàng khác; dân số tương đối đông, với hơn 44 triệu người; quan hệ chính trị truyền thống giữa hai nước thuận lợi,

Với cà phê, một năm Algeria nhập khẩu khoảng 130.000 tấn, chủ yếu là robusta chưa chế biến. Càphê Việt Nam chiếm trên 50% thị phần tại Algeria với khoảng 70.000 tấn, kim ngạch trung bình đạt 100 triệu USD/năm.

Tiếp đến là gạo, mỗi năm Algeria nhập khẩu 100.000 tấn gạo chủ yếu là gạo 5% tấm, gạo đồ, phục vụ cho người Á sinh sống và làm việc tại Algeria. Gạo được trợ giá nên thuế nhập khẩu thấp, chỉ 16%. Ngoài ra, gia vị như tiêu, quế cũng có nhu cầu cao tại Algeria cùng với hạt điều nhân.

Thủy hải sản của Việt Nam sang Algeria đạt kim ngạch từ 9-10 triệu USD/năm.

Cá tra của Việt Nam được bán với giá khoảng 5 USD/kg, tương đương với loại cá biển đánh bắt rẻ nhất của Algeria là cá trích (Sardine), do vậy hàng Việt Nam có tính cạnh tranh cao.

Về thị trường Senegal, theo ông Hoàng Đức Nhuận, mặc dù là thị trường có quy mô nhỏ với dân số khoảng 16 triệu người, thu nhập bình quân đầu người 1.400 USD/người/năm, song so với nhiều quốc gia khác thuộc châu Phi, nền kinh tế Senegal khá mở, hội nhập sâu rộng ở cấp độ quốc tế cũng như trong khu vực.

Năm 2019, trước COVID-19, Việt Nam xuất khẩu gạo sang thị trường này đạt kim ngạch 32 triệu USD/năm. Ngoài gạo, nước ta còn xuất sang Senegal nhiều mặt hàng khác như hạt tiêu, bánh kẹo và sản phẩm ngũ cốc, sắt thép các loại…

Senegal có nhiều nhà hàng của người Việt Nam và người châu Á, và cộng đồng người Việt ở đây cũng khá đông nên có cơ hội cho hàng Việt Nam.

Tuy nhiên, thuế nhập khẩu ở một số nước châu Phi cũng tương đối cao, tại Algeria là 30% chưa kể VAT là 19%. Bên cạnh đó, Algeria còn áp dụng thuế phòng vệ bổ sung, dao động từ 30-200% tuỳ mặt hàng.

Nên doanh nghiệp Việt Nam cần tìm kiếm đối tác qua các kênh uy tín trước khi tiến hành giao dịch. Doanh nghiệp cần đề nghị đối tác cung cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, thẻ xuất nhập khẩu, hộ chiếu, căn cước của người đại diện để các cơ quan chức năng như các Thương vụ Việt Nam tại châu Phi có thể xác minh.

Về thanh toán khi xuất khẩu sang châu Phi, nên áp dụng phương thức tín dụng thư (L/C) không hủy ngang có xác nhận của ngân hàng uy tín hoặc phương thức nhờ thu chứng từ (DP at sight) có đề nghị khách hàng đặt cọc từ 25% trở lên giá trị tiền hàng.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần tiến hành kiểm định hàng hóa thông qua tổ chức giám định quốc tế uy tín (Bitec International SA, Văn phòng Veritas) trước khi hàng lên tàu.

Doanh nghiệp Việt Nam cũng nên cố gắng đàm phán với nhà cung cấp để không phải đặt cọc tiền hoặc đặt cọc ở mức tối thiểu, đồng thời đối với những đơn hàng đầu tiên, chỉ nên mua với khối lượng nhỏ.

Liên quan đến thông tin trên nhãn mác, bao bì tại Algeria và một số nước Bắc Phi thường được viết bằng 2 thứ tiếng là tiếng Arab và một ngôn ngữ khác (tiếng Pháp hoặc tiếng Anh). Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần tìm hiểu thị hiếu, văn hóa người tiêu dùng tại các quốc gia Hồi giáo, quan tâm đến giấy chứng nhận Halal.

Nguồn: Vietnam Plus

9/ Giá cước vận tải biển tăng, chỉ có hãng tàu ăn …

Cách đây ít ngày, Cục Hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải) và Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) đồng chủ trì họp trực tuyến về vấn đề tăng giá cước vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển và rà soát các khó khăn, vướng mắc trong vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu trong thời gian dịch bệnh COVID-19.

Tại cuộc họp, Chủ tịch Hiệp hội hồ tiêu, Hiệp hội rau quả, Hiệp hội dệt may, Hiệp hội nhựa… đều phản ánh về tình trạng thiếu container rỗng và cước tăng cao. Song song, xuất hiện hủy chuyến, lên tàu mới báo giá, chính sách giá cước liên tục thay đổi, khách hàng khó đặt trực tiếp mà phải thông qua các forwarder… Đặc biệt, cơ chế tính phụ phí của các hãng tàu hiện chưa rõ ràng, với nhiều loại phụ phí phát sinh.

Ngược lại, các hãng tàu cho biết dịch COVID-19 ảnh hưởng toàn cầu khiến cho các hãng cũng gặp nhiều khó khăn và đang cố đảm bảo cho sự ổn định của chuỗi cung ứng. Tại cuộc họp, một số hãng tàu: CMA-CGM, Evergreen, COSCO… đều khẳng định, không thiếu container rỗng, các phụ phí được niêm yết công khai trên web. Chênh lệch giữa giá cước niêm yết và giá cước thực tế là do yếu tố cung cầu và tùy thuộc sự thương lượng giữa chủ hàng và forwarder. Do đó, các hãng không can thiệp.

Tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp xuất khẩu

Để giải quyết tình trạng bất cập trên, Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam kiến nghị Bộ Tài Chính, Bộ Giao thông vận tải xem xét sửa đổi Luật quy định các doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển, phải thực hiện kê khai giá thay vì chỉ quy định niêm yết giá như hiện nay.

Theo đại diện Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, các nội dung liên quan đến phụ phí, đề nghị các doanh nghiệp cung cấp thông tin tới các cơ quan quản lý nhà nước để điều tra nếu có hiện tượng thổi giá lũng loạn thị trường. Ngoài ra, đại diện này cũng đề xuất công khai điện tử để thuận tiện cho doanh nghiệp.

Việt Nam là thị trường tiềm năng đối với các hãng tàu, đo đó chúng tôi không chấp nhận việc các hãng tàu đến kinh doanh nhưng không hợp tác với các doanh nghiệp trong nước vì sự phát triển chung. Do đó, nếu các hãng không có sự hợp tác thì cơ quan quản lý Nhà nước sẽ áp dụng các chế tài thích đáng” – ông Trần Tranh Hải cho biết.

Về các phụ phí và lộ trình tăng giá, hãng tàu chưa có giải trình phù hợp, do đó về mặt lâu dài, các hạng mục này cần đưa vào danh sách quản lý. 

Nguồn: Chuyên trang Nhịp sống Kinh tế

10/ Xúc tiến thương mại trực tuyến

Từ năm 2020, do dịch COVID-19, Bộ Công Thương đã chủ động tổ chức trên 500 hội nghị xúc tiến thương mại quốc tế bằng hình thức trực tuyến.

Kết quả là trên 1 triệu phiên giao thương trực tuyến được thực hiện, hàng trăm nghìn doanh nghiệp Việt Nam đã được hỗ trợ xúc tiến thương mại trực tuyến với các đối tác trên khắp 5 châu lục gồm 55 thị trường xuất khẩu của Việt Nam; trong đó có các thị trường lớn như: Trung Quốc, Mỹ, EU, Nhật Bản và các thị trường tiềm năng châu Phi, Australia.

Ngoài ra, hoạt động giao thương trực tuyến cũng đã kịp thời hỗ trợ các địa phương có nông sản phụ thuộc mùa vụ cao như Bắc Giang, Hưng Yên, Sơn La, Cà Mau, Đắk Lắk, Sóc Trăng tiêu thụ sản phẩm qua các sàn thương mại điện tử Sendo, Shopee, Voso.vn…

Bên cạnh, Bộ Công Thương đã xây dựng 5 ứng dụng như hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung  quản lý khách hàng (CRM); hệ sinh thái xúc tiến thương mại (VECOBIZ); cổng truy xuất nguồn gốc xúc tiến thương mại (www.itrace247.com); cổng thông tin hướng dẫn xuất nhập khẩu (https://vietnam.tradeportal.org); nền tảng đào tạo (E-learning).

Ông Tô Hoài Nam- Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME): chi phí chỉ bằng 1/10 nhưng đem lại hiệu quả gấp nhiều lần. Ưu điểm vượt trội của kênh xúc tiến thương mại trực tuyến là rút ngắn khoảng cách giữa các đối tác, khách hàng và doanh nghiệp.

Bởi thông qua xúc tiến thương mại trực tuyến, doanh nghiệp có thể tiếp thị toàn cầu, truy cập lấy thông tin cũng như giao dịch với khách hàng 24/7.

Đơn cử, xuất khẩu vài lần này là có gắn tem truy xuất nguồn gốc iTrace247 do Cục Xúc tiến thương mại phát triển làm tăng thương hiệu cho quả vải Việt Nam. Tổng sản lượng xuất khẩu năm 2021 đạt trên 89.000 tấn, chiếm 41,4% tổng sản lượng tiêu thụ.

Cần hệ sinh thái xúc tiến thương mại toàn diện

Theo ông Vũ Tiến Lộc-Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), thương mại điện tử xuyên biên giới đã thay đổi hoàn toàn xu hướng kinh doanh, hợp tác với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần số hóa tất cả điểm tiếp xúc để tương tác với người mua hàng.

Sắp tới, Cục sẽ triển khai thí điểm hình thức mới là tham gia hội chợ từ xa – lựa chọn các hội chợ có uy tín, được triển khai tại nội địa các nước và khu vực đã kiểm soát được dịch bệnh để xây dựng gian hàng trưng bày của doanh nghiệp Việt Nam.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần thường xuyên cập nhật thông tin mặt hàng xuất khẩu, nhà phân phối, nhà nhập khẩu tiềm năng cũng như nâng cấp, bảo dưỡng cơ sở vật chất, máy móc, thiết bị để kết nối giao thương trực tuyến đạt hiệu quả cao.

Nguồn: Bnews

11/ Tận dụng sự tương đồng để đẩy mạnh xuất khẩu vào ASEAN

Nhiều ưu đãi

Số liệu từ Tổng cục Thống kê, 7 tháng năm 2021, tổng kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và ASEAN ước tính đạt 40,8 tỷ USD, tăng 38,5% so với cùng kỳ năm 2020.

Theo các chuyên gia và doanh nghiệp, thị trường ASEAN không khó tính như nhiều thị trường khác tại Đông Bắc Á, châu Âu, Hoa Kỳ. Không những thế, ASEAN còn có vị trí địa lý gần gũi, hàng hóa và nhu cầu sử dụng hàng hóa có nhiều điểm tương đồng… nên có thể giúp hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam chiếm lĩnh thị trường.

Hơn nữa, theo Tổng cục Thống kê, việc tham gia Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), đàm phán ký kết Hiệp định Ưu đãi thuế quan của ASEAN (CPT), Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA)…, Việt Nam đã có nhiều ưu thế để tăng trưởng thương mại, kinh tế, đồng thời tạo động lực phát triển sản xuất – kinh doanh.

Ông Dương Viết Lĩnh, Phòng Kinh doanh, Công ty TNHH MTV 176 cho biết, trước dịch Covid-19, công ty thường sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng cho đối tác tại Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, dịch Covid-19 đã khiến xuất khẩu bị ngưng trệ nên Công ty đã tận dụng cơ sở máy móc, nhân công để sản xuất khẩu trang, thiết bị bảo hộ, trong đó đặc biệt hướng đến xuất khẩu sang thị trường ASEAN do thuận lợi về vị trí địa lý cũng như các thủ tục về xuất nhập khẩu và thuế quan.

Nhập siêu còn cao

Ở chiều ngược lại, những con số của Tổng cục Thống kê cho thấy, Việt Nam đang nhập siêu từ thị trường ASEAN ước tính đạt 8,6 tỷ USD trong 7 tháng qua, tăng 123% so với cùng kỳ năm 2020. Điều này cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa khai thác tốt cơ hội và tiềm năng để gia tăng lượng hàng xuất khẩu. Do đó, theo các chuyên gia, các doanh nghiệp Việt Nam phải tăng chất lượng, tìm hướng đi riêng để tăng sức cạnh tranh.

Ngoài ATIGA, RCEP cũng đã và đang tạo ra nhiều cơ hội tốt để doanh nghiệp tận dụng cơ hội xuất khẩu vào thị trường ASEAN, cũng như cơ hội để nhập khẩu nguyên phụ liệu nhằm duy trì sản xuất và xuất khẩu trong thời gian bị gián đoạn do đại dịch trong thời gian vừa qua. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cho rằng, với lợi thế về sự tương đồng, doanh nghiệp có thể tìm cơ hội để chủ động hợp tác với doanh nghiệp tại các nước ASEAN, tạo các sản phẩm có lợi thế để xuất khẩu ra thị trường thế giới.

Nguồn: Báo Hải Quan

12/ Thủy sản vượt “bão” Covid-19

Theo Tổng cục Hải quan, trong 7 tháng đầu 2021, kim ngạch của ngành thủy sản đạt 4,98 tỉ USD, tăng 13,3%. Mỹ tiếp tục là thị trường nhập khẩu lớn nhất của ngành với trên 1,14 tỉ USD trong 7 tháng, chiếm 22,9% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhật Bản chiếm vị trí thứ 2, tiếp theo là EU và Trung Quốc cũng ghi nhận tăng trưởng.

Đáng chú ý, Việt Nam hiện đã trở thành nước cung cấp sản phẩm tôm lớn nhất cho Úc, chiếm tỷ trọng áp đảo đến 62% tổng giá trị nhập khẩu tôm của nước này. Trong khối CPTPP, Úc được đánh giá là thị trường tiềm năng nhất.

Cụ thể, trong 6 tháng đầu 2021, kim ngạch xuất khẩu tôm sang Úc đạt 88,7 triệu USD, tăng 81% so với cùng kỳ năm trước. Nước này cũng là thị trường tăng trưởng nhiều nhất trong số các thị trường nhập khẩu tôm chính của Việt Nam.

Tốc độ tăng trưởng phụ thuộc kiểm soát dịch bệnh

Dưới ảnh hưởng của dịch bệnh, hầu hết các tỉnh thành đã yêu cầu các doanh nghiệp duy trì hoạt động khi đảm bảo “3 tại chỗ” hoặc “1 cung đường – 2 địa điểm” để phòng, chống dịch lây lan vào các nhà máy, các khu công nghiệp. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 30% các doanh nghiệp thủy sản tại các tỉnh thành phía Nam đảm bảo được điều kiện “3 tại chỗ”. Với những nhà máy thực hiện được, thì số lượng công nhân có thể huy động cũng chỉ 30-50% số lượng lao động, số còn lại phải nghỉ việc hoặc nghỉ không lương. Do đó, công suất sản xuất trung bình đã giảm chỉ còn 40-50% so với trước đây.

VASEP kiến nghị Chính phủ nhanh triển khai tiêm vắc xin cho người lao động ngành thủy sản. Khi tạo được miễn dịch cộng đồng, việc duy trì mức độ tăng trưởng trong những tháng còn lại của năm 2021 là hoàn toàn có thể.

Nguồn: Báo Công Thương

13/ Cần thiết phát triển ngành công nghiệp vật liệu

Các ngành công nghiệp vật liệu có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các thị trường sản xuất, là điều kiện cần thiết để phát triển nền công nghiệp hiện đại, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Đây là yếu tố tác động mạnh tới tăng trưởng kinh tế, là cơ sở phát triển cho nhiều ngành, nghề và sản phẩm mới, tạo điều kiện khai thác tối ưu các nguồn lực phục vụ phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, vị thế cạnh tranh và tham gia toàn cầu hóa.

Vật liệu công nghiệp là yếu tố có tính nền tảng, là nguyên liệu đầu vào cho các thị trường sản xuất hàng hóa, có hiệu ứng lan tỏa, tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp khác, đặc biệt là ngành công nghiệp chế tạo, công nghệ thông tin, điện tử, hóa dẻo, công nghệ cao; phục vụ cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, chăn nuôi và chế biến sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế và tham gia chuỗi cung ứng, sản xuất, dịch vụ khu vực và quốc tế.

– Sản xuất vật liệu công nghiệp trong nước là yếu tố góp phần chủ động giải quyết việc làm, nâng cao năng suất lao động, thương hiệu sản phẩm quốc gia và cạnh tranh quốc tế, nâng cao sự tự chủ cho công nghiệp quốc phòng  – an ninh, giảm nhập siêu, tăng giá trị xuất khẩu, chất lượng hàng hóa Việt Nam.

– Sản xuất vật liệu công nghiệp có quy mô càng lớn thì giá thành càng rẻ, lợi nhuận và giá trị gia tăng càng cao, vì vậy phải lựa chọn được những lĩnh vực mà thị trường trong nước và quốc tế có nhu cầu lớn, sản phẩm kết tinh, chứa đựng hàm lượng khoa học – công nghệ cao.

– Phát triển sản xuất vật liệu công nghiệp sẽ góp phần giảm mạnh nhập khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng chiến lược và tổ chức thực hiện hiệu quả sản xuất vật liệu công nghiệp, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường sản xuất vật liệu công nghiệp nội địa rộng lớn, chưa kể đến thị trường khu vực và quốc tế.

– Phát triển sản xuất vật liệu công nghiệp sẽ khắc phục được tình trạng xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản thô giá rẻ; qua đó sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, nâng cao khả năng gia tăng giá trị sản phẩm, tạo thêm nguồn lực cho đất nước cả trước mắt lẫn lâu dài.

– Một trong số những điều kiện để hưởng ưu đãi thuế quan từ các hiệp định thương mại là phải bảo đảm quy tắc xuất xứ, tự chủ được vật liệu.

– Phát triển sản xuất vật liệu công nghiệp tạo điều kiện để các doanh nghiệp nước ta có chỗ đứng vững chắc, liên doanh, hợp tác phát triển, nâng cao hiệu quả trong các chuỗi giá trị toàn cầu, hạn chế tình trạng Việt Nam chỉ tận dụng được lợi thế lao động giá rẻ, không chủ động được bảo vệ môi trường.

– Xây dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, định hướng đầu tư cho sản xuất vật liệu công nghiệp là đầu tư chiến lược thu hút các nhà đầu tư FDI, tiếp thu được nhiều loại hình công nghệ mới tiên tiến, hiện đại.

Tuy nhiên, về tổng thể thì năng lực sản xuất của công nghiệp vật liệu nước ta vẫn còn nhỏ, năng suất và chất lượng còn nhiều hạn chế. Như tỷ lệ nội địa hóa sản xuất các loại vật liệu phục vụ cho ngành công nghiệp chế tạo còn thấp, như vật liệu gang chế tạo (đạt dưới 30%); vật liệu nhôm, vật liệu đồng (khoảng 5%); hóa chất cho ngành nhựa, cao su vẫn phải nhập khẩu đến 70%; nguyên liệu cho ngành dệt may phải nhập khẩu gần 90% vải, 80% sợi;…Một số hạn chế, tồn tại bao gồm:

– Chưa có chính sách hiệu quả thu hút đầu tư và phát triển cong nghiệp vật liệu phục vụ sản xuất.

– Ngành công nghiệp vật liệu chưa tạo lập được môi trường kinh doanh công nghiệp thuận lợi, minh bạch, ổn định và thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh.

– Chưa có các chính sách đủ mạnh để chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo hướng gia tăng các ngành công nghiệp vật liệu, vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao.

– Các chính sách thúc đẩy chuyển giao công nghiệp và khuyến khích nâng cao tỷ lệ nội địa hóa của các sản phẩm công nghiệp còn hạn chế.

– Phần lớn doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) của nước ta hiện nay đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình độ sản xuất chưa cao.

– Chưa hình thành được các Tập đoàn công nghiệp có quy mô tầm cỡ khu vực trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo để hiệu ứng lan tỏa cho đầu tư và phát triển công nghiệp vật liệu Việt Nam.

Nguồn: Bộ Công Thương

14/ Trung Quốc thay đổi một số chính sách thuế với sản phẩm gang thép xuất nhập khẩu

Đầu tháng 5 và cuối tháng 7 năm 2021 vừa qua, Tổng cục Thuế quốc gia (Bộ Tài chính) Trung Quốc đã tiến hành 02 lần điều chỉnh chính sách thuế đối với nhiều sản phẩm gang thép xuất nhập khẩu.

Tại lần điều chỉnh tháng 5, Trung Quốc quyết định áp mức thuế 0% tạm thời đối với một số nguyên liệu sản xuất thép nhập khẩu từ ngày 01 tháng 5 năm 2021, cụ thể gồm: gang, thép thô, nguyên liệu thép tái chế (thép phế liệu) và hợp kim Ferrochrome. Nước này cũng tăng thuế xuất khẩu lên 25% đối với sản phẩm hợp kim Ferrosolicon (hợp kim của Fe-rô và Si-líc), tăng thuế xuất khẩu tạm thời (từ 10%) lên 15% đối với sản phẩm gang có độ tinh khiết cao, tăng thuế xuất khẩu tạm thời (từ 15%) lên 20% đối với sản phẩm hợp kim Ferrochrome và ngừng chính sách hoàn thuế đối với 146 sản phẩm gang thép xuất khẩu.

Tại lần điều chỉnh thứ hai (tháng 7 năm 2021), Tổng cục Thuế quốc gia Trung Quốc tiếp tục bổ sung 23 sản phẩm thép khác vào diện ngừng hoàn thuế xuất khẩu. Như vậy, danh sách sản phẩm gang thép bị ngừng hoàn thuế xuất khẩu sau hai lần điều chỉnh đã lên đến 169 sản phẩm (mã HS 8 số), trong đó có một số sản phẩm thép được Việt Nam nhập khẩu khá nhiều từ Trung Quốc 

Nguồn: Bộ Công Thương

15/ Nông sản Việt được đánh giá tích cực tại Ma-rốc

Chiều ngày 12/8/2021, Cục Xúc tiến thương mại và Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc phối hợp tổ chức Phiên tư vấn trực tuyến về thị trường Ma-rốc. Phiên tư vấn là sự kiện trong khuôn khổ Hội nghị trực tuyến kết nối tiêu thụ, xúc tiến xuất khẩu nông sản, thủy sản khu vực Nam Bộ và Tây Nguyên 2021 do Bộ Công Thương chủ trì thực hiện.

Theo ông Đỗ Việt Phương – Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc, đây là một trong những quốc gia có nền an ninh chính trị và xã hội ổn định vào bậc nhất khu vực Châu Phi.

Ma-rốc có vị trí địa lý thuận lợi, gần Châu Âu và nằm trên tuyến giao thương nối Ấn Độ Dương với Đại Tây Dương và Địa Trung Hải, có khả năng trở thành cửa ngõ để hàng hóa Việt Nam tiếp cận với thị trường các nước Châu Phi, Trung Đông và Châu Âu. Đặc biệt, Hiệp định Thương mại tự do Châu Phi (AfCFTA) được ký kết vào tháng 3/2018, có hiệu lực từ 01/01/2021, đưa Châu Phi trở thành khu vực mậu dịch tự do lớn nhất về số nước tham gia kể từ khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập. Đây sẽ là yếu tố thuận lợi để hàng Việt Nam thâm nhập thị trường Ma-rốc và từ đó mở rộng tiếp cận thị trường các nước khác trong khu vực.

Trong 10 năm qua, quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Ma-rốc phát triển tích cực. Kim ngạch hai chiều tăng trưởng tốt dù chưa ổn định và không theo quy luật. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Ma-rốc gồm có: gạo, hạt tiêu, dứa hộp, điện thoại và linh kiện, máy tính, cà phê, hải sản, gia vị nói chung, sản phẩm hóa chất, dệt may, giày dép… Trong đó, mặt hàng cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thực phẩm chế biến và gia vị các loại vẫn tiếp tục chiếm ưu thế.

Chia sẻ về vấn đề xuất khẩu mặt hàng cà phê sang Ma-rốc, ông Phương cho biết, Ma-rốc có nhu cầu lớn đối với mặt hàng cà phê, thị trường này chủ yếu nhập khẩu cà phê chưa rang xay để chế biến phù hợp với khẩu vị người tiêu dùng Ma-rốc.

Về cơ bản, nông lâm thủy sản vẫn là những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam sang Ma-rốc. Đặc biệt, nông sản, nông sản chế biến có đóng góp xấp xỉ 60% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang Ma-rốc.

Trong khi đó, hàng nông sản của Việt Nam được người Ma-rốc và các nước khu vực đánh giá tích cực. Thời gian qua, hàng nông sản Việt Nam phải cạnh tranh khốc liệt với hàng nước khác, nhất là nông sản từ Trung Quốc, Indonesia và Ấn Độ.

Đối với các mặt hàng Việt Nam có ưu thế sản xuất như hạt điều chế biến có khả năng cạnh trạnh khá tốt. Tuy nhiên, không phải mặt hàng nào Việt Nam cũng chiếm ưu thế, chẳng hạn với các mặt hàng có nhiều nước cùng sản xuất như gạo, hạt tiêu, quế, hồi…

Tuy nhiên, xu thế bảo hộ các sản phẩm nông sản tại Ma-rốc khá cao do định hướng phát triển của bạn cũng tập trung vào đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Mức thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu nói chung và hàng nông thủy sản nói riêng còn cao, cá biệt có những mặt hàng lên tới hơn 60%, bao gồm cả thuế và phí.

Đại diện Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc khuyến cáo, trong kinh doanh để tăng tuân thủ cam kết và độ tin cậy, doanh nghiệp cần yêu cầu đối tác mua hàng đặt cọc cao, tối thiểu 25% giá trị lô hàng.

Nguồn: Bộ Công Thương

16/ Hợp tác cung ứng hàng thủy sản cho xuất khẩu

Lượng thủy sản của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ đáp ứng đủ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà còn phục vụ cho việc xuất khẩu đến các thị trường trên khắp thế giới.

Khâu sản xuất trong khu vực được thực hiện liên tục, bởi có như vậy, nguồn thủy sản mới được gối đầu, cung ứng cho nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của người dân cả nước.

Chính vì vậy, khi các tỉnh thực hiện giãn cách xã hội phòng chống dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đến thu nhập của người dân, đồng thời tác động mạnh đến sản xuất nông nghiệp.

Ông Hoàng Văn Duy, Giám đốc Kinh doanh Công ty TNHH MeKong Food Connect, thuộc Tập đoàn MeKong Food cho biết, MeKong Food Connect có 500 khách hàng tại 85 thị trường trên khắp thế giới, chuyên tiêu thụ các loại nông sản của Việt Nam như: cá tra, tôm càng xanh, tôm thẻ, tôm sú, cá rô phi, cá điêu hồng, đùi ếch, cua, cá thác lác, cá ngừ, … Mỗi tháng, MeKong Food Connect xuất khẩu từ 1.000 – 1.500 tấn các loại sản phẩm này.

Không những vậy, MeKong Food Connect còn đang tiếp tục mở rộng các thị trường tiềm năng, cũng như sẽ khai thác các sản phẩm thủy sản khác đầy tiềm năng của Việt Nam để xuất khẩu ra thị trường thế giới. Đặc biệt, sản phẩm của MeKong Food Connect cũng được cung ứng cho chuỗi nhà hàng sushi lớn nhất thế giới của Nhật Bản.

Với đơn đặt hàng tháng 8/2021, MeKong Food Connect đang cần 40 container cá tra, 4 container cá ngừ, 8 container cá tra sữa sạch kích cỡ từ 400 – 600 gram, từ 600 – 800 gram, lườn cá ngừ đi Bỉ, cá rô phi, cá diêu hồng nguyên con cạo vảy, bỏ vỏ, phile.

Các mặt hàng này đều phải được qua sơ chế, hoặc các hợp tác xã có thể cung ứng cho MeKong Food Connect, để công ty thuê nhà máy sơ chế bên thứ 3 thực hiện sơ chế trước khi giao hàng, bà Lê Ngân, đại diện MeKong Food Connect cung cấp thông tin.

Sẵn sàng hợp tác cung ứng

Ước tính, mỗi năm tỉnh Kiên Giang sản xuất khoảng 400.000 tấn thủy sản nuôi và 1 triệu tấn thủy sản nuôi biển bền vững.

Trong tháng 8/2021, nông dân tỉnh Kiên Giang dự kiến sản xuất khoảng 1.500 tấn thủy sản các loại; trong đó, tôm càng xanh hơn 1.000 tấn, tôm thẻ 65 tấn, cá bớp 15 tấn, sò huyết 40 tấn, cá bè quỵt 5 tấn và cua biển 100 tấn.

Cùng với Kiên Giang, các địa phương khác như: An Giang, Sóc Trăng cũng có nguồn hàng thủy sản dồi dào, sẵn sàng cung ứng cho các đơn hàng xuất khẩu.

Chỉ cần nhà nhập khẩu, doanh nghiệp liên kết thu mua đưa ra yêu cầu, ngành nông nghiệp An Giang sẽ hướng dẫn các nông dân sản xuất theo đúng tiêu chí, tạo điều kiện cho lưu thông hàng hóa, xoay vòng sản xuất.

Đặc biệt, để người dân an tâm sản xuất lâu dài và bền vững, ngành nông nghiệp tỉnh An Giang sẵn sàng ký kết “Hợp đồng quy tắc” với các doanh nghiệp, để ngành nông nghiệp đưa ra định hướng sản xuất cụ thể và hiệu quả cho người dân.

Để có được những sự tự tin trên, mỗi địa phương tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đều đã được Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn phân công sản xuất theo 3 khu vực cụ thể đó là: vùng nuôi trồng thủy sản, vùng sản xuất trái cây và vùng sản xuất lúa, hoa màu.

Ông Trần Đình Luân, Tổng Cục trưởng Tổng cục thủy sản cho rằng, để tránh chồng chéo trong các hợp đồng ghi nhớ khi liên kết với doanh nghiệp, mỗi địa phương cần phát triển các sản phẩm chủ lực, lựa chọn thế mạnh để có kế hoạch sản xuất và phát triển hiệu quả.

Nguồn: Bnews

17/ Doanh nghiệp FDI lo đứt gãy cung ứng

Thách thức lớn

Theo ông Alain Cany, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham), các biện pháp phòng chống dịch bệnh hiện nay là thách thức lớn để các công ty duy trì. Trong đó, “3 tại chỗ” là phương án khó có thể duy trì trong thời gian dài và cũng là những điều kiện khó khăn đối với người lao động.

Trên thực tế, ở các đợt dịch trước, gần 80% doanh nghiệp châu Âu đang hoạt động tại Việt Nam đã yêu cầu nhân viên làm việc tại nhà.

Đến đợt dịch lần thứ 4, các quy định phòng chống dịch được siết chặt hơn, đặc biệt là ở các tỉnh, thành phố phía Nam. “Các hoạt động kinh doanh được coi là không thiết yếu đã buộc phải đóng cửa và ngay cả những doanh nghiệp được phép mở cửa cũng phải điều chỉnh hoạt động để đáp ứng yêu cầu nghiêm ngặt về phòng chống dịch”, ông Alain Cany nói.

 “Cần có một cách tiếp cận tập trung, nhất quán hơn, với các danh mục khác nhau tùy thuộc vào mức độ rủi ro của một khu vực. Điều này sẽ giúp giải quyết tắc nghẽn hàng hóa và tăng tốc độ di chuyển tối thiểu của hàng hóa”, ông Alain Cany lưu ý.

Khát vắc-xin

Tính đến cuối tháng 7/2021, qua 3 đợt tiêm vắc-xin Covid-19, Goertek Việt Nam đã có hơn 4.000 công nhân viên được tiêm chủng, mới đạt khoảng 15% tổng số lao động của Công ty. “Mong muốn của chúng tôi là được Chính phủ Việt Nam, tỉnh Bắc Ninh hỗ trợ để 100% người lao động của Công ty có nguyện vọng tiêm đều có thể tiêm đủ 2 liều vắc-xin”, đại diện Goertek bày tỏ.

Mức độ sẵn sàng của vắc-xin cũng đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Theo kết quả khảo sát gần đây của Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham), các doanh nghiệp này liên tục nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tăng tốc hơn nữa chiến lược tiêm vắc-xin.

Theo ông Adam Sitkoff, Giám đốc điều hành AmCham, hơn 90% doanh nghiệp thành viên của AmCham cho biết, đợt bùng phát dịch lần này ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ tại Việt Nam. Những thách thức lớn nhất nằm ở việc thiếu vắc-xin để bảo vệ họ và người lao động, cũng như đáp ứng các yêu cầu về điều kiện và thủ tục để đưa những nhân sự quan trọng đến Việt Nam làm việc.

Chủ tịch EuroCham cho rằng, điều đầu tiên và quan trọng nhất hiện nay là phải đẩy nhanh việc tiêm vắc-xin Covid-19 tại Việt Nam. “Chúng ta càng tiêm phòng cho mọi người sớm bao nhiêu, thì càng có thể sớm trở lại hoạt động kinh doanh và cuộc sống bình thường bấy nhiêu”, ông Alain Cany đề xuất.

Nguồn: Báo Đầu Tư

18/ Nhà nhập khẩu “mách nước” cho nông sản Việt bám chắc thị trường quốc tế

Ông Phạm Văn Hiển, Giám đốc Công ty LTP Import Export B.V – doanh nghiệp chuyên nhập khẩu nông sản Việt bán tại EU cho biết, thời gian qua, nhiều loại trái cây tươi của Việt Nam như vải thiều, nhãn đã xuất khẩu trực tiếp sang EU, nhưng sản lượng chưa nhiều.

Mấu chốt để xuất khẩu được nhiều hơn, theo ông Hiển, là doanh nghiệp phải đầu tư công nghệ bảo quản giúp trái cây tươi đi được đường biển, sang đến EU mà vẫn tươi thêm vài tuần nữa. “Mới đây, chúng tôi nhập khẩu nhãn Sơn La đi đường hàng không vào EU, nhưng hàng hỏng còn nhiều do công nghệ bảo quản chưa tốt”, ông Hiển chia sẻ.

Tín hiệu đáng mừng là mới đây, nhờ công nghệ bảo quản, một lô vải thiều Việt Nam đã đi đường biển sang Pháp với giá rẻ hơn 1/3 đi máy bay, kể cả trong lúc giá vận tải biển đang cao bất thường.

Từ thực tiễn nhập hàng Việt Nam phân phối tại Nhật Bản, ông Cấn Thành Trung, CEO Công ty Kome Co Ltd khuyến cáo, các nhà sản xuất, chế biến nông, thủy sản Việt Nam cần có công bố sản phẩm ghi chi tiết thành phần gồm các nguyên liệu, chất phụ gia. Đặc biệt, các doanh nghiệp Việt phải duy trì được chất lượng sản phẩm, giá bán và nâng cấp quy trình xuất khẩu theo cách chuyên nghiệp…để tránh tình trạng lô hàng bị hủy hoặc phải quay đầu về nước, gây thiệt hại không nhỏ cho doanh nghiệp.

Giữ độ ổn định các lô hàng

Ông Hiển cho biết, Campuchia mới bắt đầu xuất khẩu gạo khoảng 10 năm nay, nhưng đã lọt top 5 nước xuất khẩu vào EU. Rõ ràng, để khẳng định là quốc gia xuất khẩu gạo có thế mạnh, Việt Nam cần chạy đua nhiều hơn.

Người tiêu dùng châu Âu đã quá tin tưởng vào gạo Thái Lan suốt 30 năm nay, nhưng chúng tôi đã bước đầu chinh phục được khách hàng dùng gạo ST24, ST25 của Việt Nam. Vấn đề nằm ở các lô gạo thơm, jasmine, có những doanh nghiệp xuất khẩu lô hàng sau khác với lô hàng trước, độ ổn định chưa cao, trong khi Thái Lan làm rất tốt điều này”, ông Hiển cho biết.

Theo các nhà nhập khẩu, dịch bệnh đã ảnh hưởng nhiều đến nhu cầu, khiến đơn hàng sụt giảm, nhưng thị trường đang dần phục hồi trở lại. Vì vậy, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần chủ động trong dự trữ nguyên liệu, nắm thông tin về nhà nhập khẩu, nắm lịch tàu biển để đảm bảo xuất hàng đúng tiến độ.

Nguồn: Báo Đầu Tư

 

19/ Chuỗi cung ứng toàn cầu chịu đòn giáng mạnh, đứng trước nguy cơ đứt gãy khi biến thể Delta lan rộng tại châu Á

Theo ước tính của Liên hợp quốc, châu Á là nguồn gốc của 42% lượng hàng hóa xuất khẩu trên toàn cầu. Tình trạng lây lan hiện tại đang có nguy cơ khiến các lô hàng vận chuyển gặp gián đoạn, trong bối cảnh mùa mua sắm cao điểm đang đang gần.
Bloomberg nhận định, các vấn đề diễn ra tại những cảng vận chuyển của châu Á sẽ từ từ tác động đến những nơi như Los Angeles hoặc Rotterdam. Sau đó, người tiêu dùng sẽ là bên chịu áp lực từ mức giá tăng cao.

Ngoài ra, các đợt bùng phát cũng gây thêm khó khăn cho các nhà xuất khẩu, khi chi phí vận chuyển tăng cao do thiếu container và nguyên liệu thô. Ví dụ, chất bán dẫn đã trở nên đắt đỏ và khan hiếm hơn trong bối cảnh nhu cầu tăng cao.

Deborah Elms – giám đốc điều hành của Asian Trade Centre, cho hay: “Biến thể Delta có thể khiến hoạt động thương mại châu Á gián đoạn đáng kể. Cho đến nay, may mắn là các thị trường tại khu vực này vẫn kiểm soát tốt dịch bệnh. Song, khi Covid-19 tiếp tục lan rộng, rủi ro sẽ ập đến nhiều nơi.

Ngoài ra, tình trạng thiếu hụt nguồn cung sẽ làm dấy lên mối lo ngại về lạm phát gia tăng đối với các nhà sản xuất Trung Quốc hoặc người tiêu dùng Mỹ.

Dù số ca nhiễm ở Trung Quốc tương đối thấp, nhưng giới chức đã đưa ra những biện pháp nghiêm ngặt để phòng dịch.

Còn ở Đông Nam Á, hoạt động sản xuất đã sụt giảm trong tháng trước, khi các nhà xuất khẩu quan trọng phải chật vật để duy trì nhà máy hoạt động.

Theo ước tính của Natixis, Indonesia, Malaysia, Philippines, Việt Nam và Thái Lan chiếm 5,7% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu, nhưng có thể có tác động đáng kể đến các nền kinh tế lớn hơn như Mỹ và Trung Quốc, đặc biệt là lĩnh vực điện tử. Trung Quốc nhập khẩu 38% máy xử lý dữ liệu và 29% thiết bị viễn thông từ 5 quốc gia trên, trong khi Mỹ nhập khẩu 1 nửa chất bán dẫn từ khu vực này.

Chưa dừng ở đó, tác động còn lây lan đến cả các trung tâm xuất khẩu của Nhật Bản và Hàn Quốc. Ví dụ, tháng trước, Samsung Electronics Co. Cho biết doanh thu trong mảng điện thoại di động của họ đã bị ảnh hưởng bởi đợt bùng phát dịch bệnh tại Việt Nam.

Lanm Lai – giám đốc thương mại khu vực nước ngoài tại CNC Electric ở tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc), cho biết: “Thách thức lớn đối với chúng tôi là chi phí vận chuyển quốc tế tăng cao, đã lên gấp đôi hoặc thậm chí gấp 3 lần trước đại dịch.

Ông nói thêm: “Năm ngoái, trong thời kỳ cao điểm của đại dịch, chúng tôi cho rằng tình trạng này chỉ là ngắn hạn. Nhưng trong tương lai, theo tôi, sự thay đổi sẽ chưa diễn ra.

Các giám đốc điều hành như Raymond Ren của hãng sản xuất túi xách và vali Pinghu Kaixin Plastic Industry Co. Ltd. không kỳ vọng rằng sẽ sớm có sự tiến triển. Ông nói: “Tôi nghĩ không có điều gì có thể đảo ngược tình trạng này trong thời gian ngắn. Bạn không thể đoán trước bất kỳ điều gì trong đại dịch này.

Nguồn: CafeF

20/ RCEP: Chú trọng bản quyền trong thương mại

RCEP được xây dựng trên nền tảng của một số hiệp định “ASEAN Cộng”, tức là ASEAN cộng với Trung Quốc, ASEAN cộng với Nhật Bản, ASEAN cộng với Hàn Quốc và ASEAN cộng với Úc/ New Zealand. Không giống CPTPP, RCEP không có các chương về lao động, môi trường hay doanh nghiệp nhà nước, tất cả các vấn đề có tầm quan trọng lớn trong việc giao dịch với các thị trường lớn như Trung Quốc.

Tuy nhiên, RCEP có một chương về sở hữu trí tuệ (IP), bao gồm một số điều khoản liên quan đến bản quyền. Hiệp định này bao gồm 15 quốc gia có trình độ và năng lực phát triển kinh tế rất khác nhau.

Những gì chương IP làm là thiết lập một số tiêu chuẩn tối thiểu trên tất cả các nền kinh tế này. Nó chủ yếu dựa trên các cam kết TRIPS (Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (SHTT)) trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), và bao gồm việc gia nhập một số điều ước quốc tế liên quan đến SHTT. Trong lĩnh vực bản quyền, bao gồm Công ước Berne, Hiệp ước Bản quyền WIPO (Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới) và Hiệp ước về Người biểu diễn và Bản ghi âm WIPO, thường được gọi là WCT và WPPT, tương ứng.

Điều này sẽ dẫn đến việc Campuchia và Myanmar gia nhập Berne, và Campuchia, Myanmar, Lào, Thái Lan và Việt Nam gia nhập WCT và WPPT, mặc dù một số quốc gia này có thời gian gia hạn lên đến một thập kỷ hoặc nhiều hơn để thực hiện nghĩa vụ.

Tuy nhiên, đó là một bước khởi đầu cho những quốc gia không có tổ chức nào như vậy tồn tại. Ngoài ra còn có ngôn ngữ tiêu chuẩn về các biện pháp bảo vệ công nghệ (TPM) và thông tin quản lý quyền (RMI). Về phía TPM, thỏa thuận yêu cầu mỗi bên “cung cấp sự bảo vệ pháp lý đầy đủ và các biện pháp pháp lý hiệu quả chống lại việc gian lận các biện pháp công nghệ hiệu quả được tác giả, người biểu diễn hoặc nhà sản xuất bản ghi âm sử dụng liên quan đến việc thực hiện các quyền của họ…”, mặc dù có thể có ngoại lệ được cung cấp theo quy định của pháp luật. RMI đề cập đến thông tin xác định tác phẩm, hiệu suất, tác giả, v.v. của bản ghi, thường được mã hóa.

Các bên ký kết thỏa thuận sẽ thực hiện bất hợp pháp việc xóa hoặc thay đổi bất kỳ RMI điện tử nào hoặc cho phép nhập khẩu, phân phối, phát sóng, v.v. các tác phẩm hoặc bản ghi mà RMI đã bị xóa hoặc thay đổi. Tất cả những điều này đều là nội dung khá tiêu chuẩn trong hầu hết các hiệp định thương mại hiện đại, nhưng việc đưa nó vào RCEP sẽ giúp tuyên truyền các tiêu chuẩn tối thiểu này.

Hiện tại, Mỹ là quốc gia châu Á – Thái Bình Dương lớn duy nhất không nằm trong khu vực này, nhưng dưới thời chính quyền Biden, quan điểm của Mỹ có thể thay đổi. RCEP là một bước tiến đáng hoan nghênh vào thời điểm thương mại toàn cầu không chỉ bị đe dọa bởi đại dịch toàn cầu mà còn do việc sử dụng ngày càng nhiều các chính sách bảo hộ đơn phương của một số quốc gia. Mặc dù chương SHTT và các điều khoản về bản quyền không phải là nội dung phức tạp hoặc sâu rộng nhất, nhưng chúng mang lại một bước tiến tích cực về mặt nâng cao các tiêu chuẩn về nhận thức, tuân thủ và cam kết về SHTT giữa 15 nền kinh tế – lớn và nhỏ, phát triển và đang phát triển – trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Nguồn: Báo Công Thương

21/ Trao đổi thương mại Việt Nam – Tây Ban Nha: Sáng lên nhờ EVFTA

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Tây Ban Nha trong 6 tháng đầu năm 2021 tăng trưởng 12,3% so với cùng kỳ năm 2020, đạt hơn 1,1 tỷ USD. Nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện đứng đầu về kim ngạch, chiếm 27% trong tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, đạt 300,23 triệu USD, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2020.

Tuy chịu ảnh hưởng của dịch bệnh và giãn cách xã hội, hình thức mua bán online ngày càng trở nên phổ biến. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải nâng cao và duy trì được chữ tín trong các giao dịch mua bán và đồng thời các cơ quan quản lý hữu quan cần có hỗ trợ việc thiết lập và quản lý một cách hiệu quả và an toàn các sàn giao dịch mua bán online hiện nay.

Bên cạnh đó, ta chỉ có thể xuất khẩu sang thị trường Tây Ban Nha các nông thủy sản đặc thù nhiệt đới. Hay nói cách khác, Tây Ban Nha là thị trường ngách để tránh đụng hàng nhau, ví dụ như cá basa, tôm nước ấm, thanh long, mít, dừa, rau thơm… 

Doanh nghiệp lưu ý

Theo Thương vụ Việt Nam, thời gian qua có một số vấn đề liên quan đến vi phạm trong thực hiện các điều khoản hợp đồng về thời hạn giao hàng và thanh toán, bên thanh toán chi phí kiểm định hàng hóa và lưu kho cảng, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, chất lượng hàng hóa. Đáng lưu ý là doanh nghiệp Việt Nam đôi khi bị “hớ” khi quên đưa vào các điều khoản có lợi cho mình về “Cơ quan Trọng tài Quốc tế”.

Trong thời qua, Thương vụ cũng đã có các báo cáo cụ thể về các thông báo của Bộ Y tế Tây Ban Nha đối với một số trường hợp doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam có các lô hàng chứa các chất gây bệnh như Cadimi, Ivermectin, Histamin, Sulphite…vi phạm hạn mức an toàn thực phẩm hiện hành của EU/ Tây Ban Nha.   

Hơn nữa, EU đang ngày càng quan tâm đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (corporate social responsibility). EU xem trọng các yếu tố trách nhiệm xã hội này của các doanh nghiệp như là điều kiện ràng buộc trong việc tiến hành giao dịch, ký kết và thực hiện mua bán hàng hóa với nước thứ ba.

Nguồn: Bộ Công Thương

22/ Thương mại điện tử ASEAN: Dư địa sau đại dịch

Đã có sự gia nhập mạnh mẽ của công nghệ kỹ thuật số trên khắp các nền kinh tế chủ chốt ở Đông Nam Á, với 40 triệu người trực tuyến lần đầu tiên chỉ tính riêng vào 2020, nâng tổng số người dùng Internet lên 400 triệu người. Hơn 3 trong số 5 người ở các nền kinh tế này là Netizen. Indonesia là nơi có mức chấp nhận thương mại điện tử cao nhất trên thế giới vào năm ngoái, với 87% người dùng Internet đã mua hàng trực tuyến, theo sau là Anh (86%), Thái Lan (84%) và Malaysia (83%).

Nhiều dư địa tăng trưởng

Giá trị thương mại điện tử của ASEAN đã tăng gần 6 lần chỉ trong vòng 4 năm, tăng từ 9,5 tỷ USD vào năm 2016 lên 54,2 tỷ USD vào năm 2020. Dự báo sẽ đạt 146 tỷ USD vào 2025.

Tuy nhiên, còn nhiều dư địa để tăng trưởng. Trong những năm gần đây, khi tỷ lệ doanh số bán lẻ trực tuyến trên tổng doanh số bán lẻ tại ASEAN (9%) vẫn thấp hơn Trung Quốc (27%) và Mỹ (20%).

Thị trường thương mại điện tử của ASEAN khá phân mảnh, với sự hiện diện của một số công ty trong khu vực và nhiều nền tảng B2C địa phương. Lazada và Shopee là hai nền tảng trực tuyến chủ chốt có hoạt động tại các quốc gia ASEAN lớn, bao gồm Indonesia, Việt Nam, Thái Lan, Singapore, Malaysia và Philippines. Trong khi hai công ty thương mại điện tử hàng đầu này thực hiện cách tiếp cận khu vực, thì cũng có nhiều nền tảng B2C địa phương ở các nước ASEAN riêng lẻ. Ví dụ, Tokopedia và Bukalapak phổ biến ở Indonesia trong khi Sendo được người tiêu dùng Việt Nam yêu thích.

Hàng điện tử tiêu dùng và quần áo là những danh mục sản phẩm chủ chốt được người tiêu dùng Đông Nam Á mua trực tuyến, chiếm hơn một nửa tổng giá trị hàng hóa vào 2020. Bên cạnh, giãn cách và ở nhà lâu đã khiến việc mua trực tuyến thực phẩm và hàng tạp hóa tăng từ 4% trong 2015 lên 11% vào năm ngoái, với hơn hai trong số năm người tiêu dùng ASEAN mới mua hàng tạp hóa trực tuyến.

Nguồn: Báo Công Thương

23/ Hàng hóa container qua các cảng Việt Nam tăng 18%

Trong 8 tháng đầu năm, hàng xuất khẩu qua các cảng biển của Việt Nam ước đạt hơn 5,4 triệu TEUs, tăng 16%; hàng nhập khẩu ước đạt hơn 5,5 triệu TEUs, tăng 21% so với cùng kỳ năm ngoái.

Đại diện Cục Hàng hải Việt Nam vừa cho biết, theo thống kê, sản lượng hàng hóa container qua hệ thống cảng biển Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2021 vẫn có mức tăng trưởng 2 con số với mức tăng 18% so với cùng kỳ năm 2020, ước đạt gần 16,8 triệu TEUs.

Một số khu vực cảng biển có sản lượng hàng container thông qua cao nhất tính trong 7 tháng đầu năm 2021 như: khu vực Quảng Nam tăng hơn 115%, khu vực Mỹ Tho tăng 41%, khu vực Hải Phòng tăng hơn 17%, khu vực Thành phố Hồ Chí Minh tăng gần 16%.

Bên cạnh đó, một số khu vực cảng biển có lượng hàng container giảm mạnh như: khu vực Quảng Ninh giảm 98%, khu vực Đà Nẵng giảm 38%, khu vực Cần Thơ giảm 23% so với cùng kỳ 2020.

Mức tăng này thấp hơn các tháng trước do Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Bộ Giao thông Vận tải cho biết, việc thực hiện giãn cách nhiều địa phương áp dụng giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Chính phủ để phòng, chống sự lây lan của dịch COVID-19 đã ảnh hưởng lớn đến lực lượng công nhân, người lao động của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp cảng biển nói chung.

Đơn cử, tại cảng Cát Lái (Thành phố Hồ Chí Minh), thời điểm căng thẳng nhất, lực lượng lao động cần kíp cho sản xuất đã bị thiếu hụt 50%, chỉ còn 250 người do đội ngũ công nhân có nhiều người nằm trong các khu dân cư bị phong tỏa, quy định hạn chế đi lại giữa các địa phương có dịch.

Trong khi đó, lực lượng nhân sự cần thiết bắt buộc phải có mặt tại hiện trường duy trì hoạt động khai thác trong ngày (3 ca sản xuất tiếp nhận trung bình 12 chuyến tàu container xuất nhập khẩu) là 500 người, chưa kể nhân viên hải quan, hãng tàu và cơ quan quản lý nhà nước liên quan.

Để giải quyết bất cập trên, Cục Hàng hải Việt Nam, doanh nghiệp cảng và hiệp hội cảng biển đã gửi kiến nghị các cấp có thẩm quyền xem xét cho phép số lượng lao động cần kíp trong dây chuyền sản xuất của cảng nếu không cư trú tại các khu vực bị phong tỏa được phép lưu thông đến cảng làm việc.

Dự báo, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa vẫn khởi sắc trong những tháng cuối năm, kéo theo tăng trưởng sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển khi dịch bệnh sớm được kiểm soát, các hiệp định thương mại tự do được thực hiện toàn diện, hiệu quả.

Nguồn: Vietnam Plus

24/ Bắt tay Amazon xuất khẩu toàn cầu

 “Chúng tôi nhận thấy, các nhà bán lẻ Việt Nam có nhiều cơ hội để xuất khẩu sản phẩm xuyên biên giới nhanh chóng hơn”, ông Gijae Seong, Giám đốc quốc gia của Amazon Global Selling Việt Nam (AGS Vietnam) đã nói như vậy trong cuộc làm việc mới đây với Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC), thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Việt Nam có một số điểm mạnh, như đang dần trở thành một công xưởng sản xuất của không chỉ khu vực Đông Nam Á, mà là của cả thế giới; các sản phẩm của Việt Nam trên sàn thương mại điện tử Amazon quốc tế đã được chú ý…”, ông Gijae Seong nói.

Ở chiều ngược lại, Amazon dường như cũng đang nỗ lực tìm kiếm các cơ hội hợp tác kinh doanh với doanh nghiệp Việt. Theo thông tin của ông Gijae Seong, Amazon đang có kế hoạch đầu tư nhiều hơn vào nguồn nhân lực tại Việt Nam.

Chúng tôi cũng đang tiếp tục tìm kiếm các lĩnh vực mới để hỗ trợ đào tạo chuyên sâu cho các doanh nghiệp Việt, giúp họ bản địa hóa sản phẩm, tùy biến sản phẩm để dễ dàng hơn khi bán hàng trên Amazon”, ông Gijae Seong nói.

Cũng theo ông Gijae Seong, Amazon có kế hoạch giúp doanh nghiệp Việt tăng hiệu quả khi tham gia bán lẻ trên sàn thương mại điện tử, như hỗ trợ người bán hàng lưu kho tại Amazon và các dịch vụ hỗ trợ online khác.

“Bệ phóng” ra toàn cầu

Cơ hội tham gia sàn Amazon là không nhỏ, nhất là khi theo khẳng định của ông Gijae Seong, tất cả các mặt hàng của Việt Nam đều có cơ hội “lên kệ” Amazon, Amazon cũng “không giới hạn ngành hàng” và “cam kết luôn ủng hộ các doanh nghiệp Việt Nam”. Song thực tế, chính ông Gijae Seong cũng thừa nhận, vẫn còn những vấn đề cần hoàn thiện để doanh nghiệp Việt “lên sàn” thuận lợi, như nhận thức về thương mại điện tử của doanh nghiệp Việt chưa đầy đủ, thiếu kinh nghiệm về xuất khẩu xuyên biên giới…

Doanh nghiệp Việt Nam cần học hỏi về các cơ hội kinh doanh với Amazon, cần biết nhu cầu của khách hàng quốc tế là gì, cách thiết kế một sản phẩm, kể cả các vấn đề liên quan đến thị trường quốc tế, đến các đối thủ cạnh tranh…”, ông Gijae Seong nói.

Trong đó, có 3 chương trình sẽ do NIC thực hiện. Ngoài NIC, Amazon còn hợp tác với Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thực hiện Chương trình “Bệ phóng 90 ngày cùng Amazon”, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu.

Nguồn: Báo Đầu Tư

25/ Đầu tư sang Mỹ tăng mạnh

Trong 7 tháng qua, các nhà đầu tư Việt Nam đã dốc vốn vào 18 quốc gia, vùng lãnh thổ. Dẫn đầu là Mỹ với 3 dự án đầu tư mới và 2 dự án điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 302,8 triệu USD, chiếm 53,1% tổng vốn đầu tư. Đứng thứ hai là Campuchia với tổng vốn đầu tư 89,2 triệu USD, chiếm 15,6% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là Lào, Canada… với vốn đầu tư đạt 47,8 triệu USD và 32,1 triệu USD.

Số liệu thống kê cho thấy, các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài ở 12 lĩnh vực. Trong đó, lĩnh vực hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ dẫn đầu với 3 lượt dự án điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm là 270,8 triệu USD, chiếm 47,5% tổng vốn đầu tư.

Lĩnh vực bán buôn, bán lẻ đứng thứ 2, với tổng vốn đầu tư 148,6 triệu USD, chiếm 26,1%; tiếp theo là các lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ,…

Như vậy, lũy kế đến ngày 20/07/2021, Việt Nam đã có 1.423 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư Việt Nam 21,8 tỷ USD. Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tập trung nhiều nhất vào các lĩnh vực khai khoáng (36,3%); nông, lâm nghiệp, thủy sản (15,3%). Các địa bàn nhận đầu tư của Việt Nam nhiều nhất lần lượt là Lào (23,8%); Campuchia (13,1%); Nga (12,9%)…

Xu hướng đầu tư ra nước ngoài để mở rộng thị trường, tìm kiếm cơ hội kinh doanh của DN Việt đã diễn ra từ vài năm nay. Vingroup góp “công lớn” trong những tháng đầu năm nay nhờ điều chỉnh tăng 300 triệu USD vốn đầu tư sang Mỹ, đồng thời đổ vốn vào các dự án khác ở Đức, Pháp, Hà Lan, Canada với vốn đầu tư mỗi dự án là 32 triệu USD.

Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, một số ngân hàng thương mại không chỉ mở rộng đầu tư sang các nước lân cận như Lào, Campuchia, Myanmar mà còn vươn ra thị trường xa hơn. Từ cuối năm 2019, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã mở văn phòng đại diện ở Mỹ sau khi được Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) phê duyệt hồ sơ xin cấp phép và được cơ quan quản lý nước này cấp giấy phép hoạt động tại Mỹ.

Giữa năm 2020, Công ty TNHH Vonfram Masan – công ty con do Công ty CP Tài nguyên Masan sở hữu 100% vốn, thuộc Tập đoàn Masan cũng hoàn tất giao dịch mua lại toàn bộ nền tảng kinh doanh vonfram từ H.C.Starck Group GmbH (Đức) – tập đoàn chế tạo hàng đầu các sản phẩm vonfram công nghệ cao. 

Tất cả thị trường đầu tư nước ngoài của Viettel đều tăng thị phần, trong đó tăng mạnh nhất là thị trường Haiti tăng 1,5%, Peru tăng 1,4%. Bốn thị trường vẫn giữ vị trí dẫn đầu là Campuchia, Lào, Đông Timor và Burundi. Tại Myanmar, Viettel đã tiến gần đến vị trí số 1 với 30,8% thị phần viễn thông.

Nguồn: Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp

26/ Tương lai cho thương mại điện tử ở Việt Nam

xuất khẩu xuyên biên giới

Theo Sách trắng TMĐT 2020, năm 2019, số người Việt tham gia mua sắm trực tuyến đã cán mốc 44,8 triệu người (năm 2015 là 30,3 triệu, năm 2016 là 32,7 triệu người, năm 2017 là 33,6 triệu và năm 2018 là 39,9 triệu người). Doanh số bán lẻ TMĐT B2C (doanh nghiệp với người tiêu dùng) của Việt Nam trong năm 2019 đạt 10,08 tỷ USD, chiếm 4,9% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cả nước.

Việt Nam có tốc độ tăng trưởng TMĐT thuộc Top 3 trong khu vực ASEAN. Để có được những con số trên, Việt Nam có thế mạnh là dân số trẻ cũng như lượng người dùng smartphone chiếm tỷ trọng lớn, lượng người giao dịch TMĐT trên smartphone nhiều. Kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của ngành logistics.

Những tồn tại cần phải khắc phục của TMĐT

Bên cạnh những lợi ích mà TMĐT mang đến như giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, giảm chi phí, tăng lợi nhuận, thanh toán nhanh thì vẫn còn nhiều hạn chế. Vấn nạn hàng giả, hàng lậu, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trên các sàn giao dịch TMĐT và mạng xã hội vẫn đang còn rất nhiều. Bên cạnh đó, hoạt động TMĐT có yếu tố nước ngoài phát sinh dưới nhiều hình thức, tranh chấp, như việc các mạng xã hội đang nổi lên là một phương thức giao dịch TMĐT phổ biến nhưng chưa được điều chỉnh…

Thách thức về an toàn, an ninh mạng và bảo mật cá nhân trong các giao dịch TMĐT cũng là một vấn đề đáng lo ngại.

Những giải pháp cơ bản cho sự phát triển

Thanh toán kỹ thuật số” là phương thức giao dịch trên các sàn TMĐT. Việc ngày càng nhiều khách hàng tiếp cận TMĐT sẽ thúc đẩy xu hướng thanh toán phi tiền mặt. Dịch vụ hậu cần như giao hàng đang trở nên ngày một quan trọng. Để hỗ trợ các nhà bán hàng và làm hài lòng hơn người tiêu dùng, các sàn lớn đã và đang tập trung đầu tư mạnh cho logistics.

Những kiến nghị và giải pháp

Hoàn toàn nhất trí với quy định các sàn TMĐT phải liên đới chịu trách nhiệm về các hoạt động vi phạm pháp luật kinh doanh như: Bán hàng lậu, hàng giả, bán hàng không xuất hóa đơn chứng từ, giải quyết không đến nơi đến chốn, vi phạm quyền lợi người tiêu dùng của các gian hàng thuê sàn để kinh doanh và thực hiện các giao dịch hàng hóa khác.

Kinh doanh bán hàng hiện nay không chỉ thông qua các sàn TMĐT, mà còn bán hàng bằng nhiều hình thức khác như bán qua Zalo, Facebook, điện thoại…Chính vì vậy, Nhà nước và Tổng Cục thuế cần quan tâm để có những hình thức quản lý những phương thức bán hàng qua cac mạng xã hội đang diễn ra trên thị trường rất sôi nổi và doanh số không hề nhỏ.

Chính vì vậy, các cấp chính quyền cần sử dụng các lực lượng chức năng như công an kinh tế, quản lý thị trường, thuế vụ…để quản lý chặt chẽ theo các quy định ở địa phương. Tổ chức công khai doanh thu bán hàng và thuế theo định kỳ của các pháp nhân kinh doanh trên địa bàn.

Nhà nước và chính quyền các địa phương cần tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh trên không gian mạng. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với đất đai nguồn vốn, các chính sách ưu đãi để phát triển TMĐT nhanh và vững chắc.

Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam chính là góp phần giảm bớt những hành vi bán hàng lậu, hàng giả qua TMĐT. Thực hiện tốt cuộc vận động: “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” do Nhà nước phát động nhiều năm nay.

Nguồn: Báo Lao động Thủ đô

27/ Tác động của các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đến việc phát triển công nghiệp vật liệu của Việt Nam

Tác động của các FTA thế hệ mới đến một số ngành công nghiệp vật liệu trọng điểm của Việt Nam

Với ngành thép:

Hiệp định EVFTA có hiệu lực sẽ tạo lợi thế cạnh tranh nhất định, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của nhóm sản phẩm thép. Tuy nhiên, do nhu cầu thép thế giới dự kiến sẽ tăng trưởng chậm lại do những biến động kinh tế, chính trị và tình hình EU đang tăng cường áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại tạo rào cản hạn chế nhập khẩu thép, dự báo tăng trưởng xuất khẩu của ngành thép sang thị trường EU trong thời gian tới sẽ không cao. Ngay cả khi có Hiệp định, việc xuất khẩu sản phẩm thép vào EU sẽ phụ thuộc rất nhiều vào hàng rào phi thuế quan hơn là thuế quan. Mặt khác, thực thi các FTA khác ở các thị trường thuận lợi hơn (như Hiệp định CPTPP hoặc RCEP) sẽ làm cho xuất khẩu nhóm hàng này sang EU tăng không đáng kể.

Với các nhóm ngành kim loại khác:

Tác động của CPTPP đến sản xuất kim loại không lớn do mức cắt giảm thuế thấp. Tuy nhiên, CPTPP rất nhấn mạnh tầm quan trọng của bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp ngành cần chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ cao, tự động hoá nhằm tăng chất lượng sản phẩm, đặc biệt là thay đổi công nghệ giảm thiểu tác động gây ô nhiễm môi trường; chủ động nguồn nguyên vật liệu (nhập khẩu quặng rất lớn), để giảm biến động giá thành.

Với nhóm ngành nhựa, cao su, hóa chất:

Đây là nhóm hàng sẽ có khả năng phải đối mặt với sự cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ CPTPP. Với sản phẩm cao su, xúc tiến thương mại thúc đẩy xuất khẩu vào các nước mà ngành công nghiệp chế biến cao su chưa phát triển nhiều như Pê-ru, Chi-lê, Bru-nây, Niu Di-lân và Ô-xtrây-li-a, chú ý thị trường nhập khẩu từ Ma-lay-xi-a cho các sản phẩm cao su chế biến sâu; xây dựng tiêu chuẩn quốc gia về cao su Việt Nam. Với sản phẩm nhựa, chú ý các giải pháp nâng cao năng suất và chất lượng, mẫu mã với ngành nhựa nhằm cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu từ CPTPP, chú ý thay đổi thị trường nhập khẩu hạt nhựa từ Hàn quốc chuyển sang các nước thuộc CPTPP như Nhật Bản và các nước ASEAN. Với sản phẩm hóa chất, cần đặc biệt chú ý các cam kết, quy định về về tiêu chuẩn, quy chuẩn khi tham gia CPTPP; đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn của Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế và các nước có tiêu chuẩn cao trong CPTPP.

Với nhóm ngành nguyên vật liệu dệt may, da – giày:

Quy định về quy tắc xuất xứ của các hiệp định tự do thương mại sẽ làm thay đổi cơ cấu của chuỗi giá trị toàn cầu, đặc biệt với các ngành, mặt hàng có yêu cầu về quy trình cụ thể hay tỉ lệ nội khối cao.

(i) Đối với hàng dệt may, CPTPP yêu cầu chuyển đổi mã hàng hoá đối với các mặt hàng xơ, sợi, vải, hàng may mặc (HS50-63) và phải trải qua các công đoạn cắt, khâu thành hình và may tại lãnh thổ của một hoặc nhiều bên đối với các mặt hàng may mặc (HS61-63).

(ii) Đối với hàng da – giày, CPTPP yêu cầu chuyển đổi mã hàng hoá hoặc tỉ lệ nội khối (hàm lượng giá trị khu vực) của các sản phẩm (HS42, 43, và 64).

(iii) Đối với hàng dệt may, EVFTA yêu cầu chuyển đổi mã hàng hoá đối với các mặt hàng xơ, sợi, vải (từ chương 50-60), và yêu cầu dệt đi kèm với may đối với hàng may mặc (HS61-63).

(iv) Đối với hàng da – giày, EVFTA yêu cầu chuyển đổi mã hàng hoá hoặc tỉ lệ nội khối của các sản phẩm (HS 42, 43, và 64).

Mặt hàng dệt may và da – giày có mức thuế nhập khẩu khá cao vào thị trường các nước CPTPP và EVFTA (>10%), do đó, việc đáp ứng được quy tắc xuất xứ để được hưởng mức thuế ưu đãi 0% sẽ mang lại lợi thế rất lớn cho các mặt hàng này. Điều này sẽ làm thay đổi cấu trúc chuỗi giá trị toàn cầu của các mặt hàng dệt may, do có yêu cầu cụ thể về công đoạn, quy trình sản xuất. Để được hưởng ưu đãi, thay vì nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào từ các nước ngoài khu vực, thì các doanh nghiệp ngành dệt may, da – giày cần phải thay thế nguồn cung, tìm mua nguyên vật liệu đầu vào từ các nước thành viên hoặc tự sản xuất ở trong nước.

Cơ hội và thách thức đối với ngành công nghiệp vật liệu khi Việt Nam gia nhập các FTA thế hệ mới

Về khía cạnh xuất khẩu: Cam kết cắt giảm thuế quan mạnh mẽ giúp tăng kim ngạch xuất khẩu. Các sản phẩm của ngành công nghiệp vật liệu sẽ tăng trưởng do lợi thế cạnh tranh của việc giảm thuế khi chủ động được chất lượng cũng như xuất xứ.

Tuy nhiên, nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy tác động của CPTPP đến nhóm ngành nhựa, cao su, hoá chất, và

các mặt hàng kim loại là không đáng kể/

Đối với Hiệp định EVFTA, nhóm hàng gốm, sứ, thủy tinh không phải là nhóm các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất nhưng có tiềm năng xuất khẩu và đã có chỗ đứng tại thị trường EU trong những năm gần đây. Thuế nhập khẩu MFN trung bình nhóm mặt hàng này khoảng 5% giảm về 1,8% ngay trong năm đầu tiên thực hiện Hiệp định với trên 73% số mặt hàng có thuế suất bằng 0%.

Dự báo tăng trưởng xuất khẩu của ngành thép sang thị trường EU trong thời gian tới sẽ không cao. Ngay cả khi có Hiệp định, việc xuất khẩu sản phẩm thép vào EU sẽ phụ thuộc rất nhiều vào hàng rào phi thuế quan hơn là thuế quan.

Thách thức

Tuy hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, ngành công nghiệp vật liệu của Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách thức khác nếu muốn có được thị phần tại thị trường quốc tế, bao gồm các hàng rào phi thuế quan như hàng rào kỹ thuật (TBT), các biện pháp phòng vệ thương mại như chống bán phá giá, tự vệ…

Đặc biệt, các thị trường trong khối FTA thế hệ mới của Việt Nam như Canada, Mexico và các nước EU… đều là các thị trường khó tính, có đòi hỏi cao về tiêu chuẩn chất lượng và có truyền thống sử dụng các biện pháp phi thuế quan và phòng vệ thương mại để bảo vệ thị trường trong nước.

Đơn cử là ngành cao su, hệ thống quản lý chất lượng cao su thiên nhiên của Việt Nam chưa đồng bộ và chưa có cơ quan chức năng quản lý chất lượng cao su tiểu điền. Việt Nam chưa có tiêu chuẩn quốc gia đối với nguyên liệu đầu vào, nên khó ngăn chặn việc pha trộn tạp chất vào nguyên liệu, gây ảnh hưởng đến chất lượng của các nhà máy chế biến mủ cao su.

Việc Việt Nam cam kết xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế nhập khẩu đối với nhóm ngành công nghiệp vật liệu, sẽ có một lượng đáng kể sản phẩm công nghiệp vật liệu từ các nước thành viên CPTPP và các nước EU được nhập khẩu về Việt Nam. Xu hướng này một mặt giúp giảm chi phí sản xuất cho các doanh nghiệp và tăng chất lượng nguồn nguyên vật liệu đầu vào, mặt khác, lại tạo sức ép cạnh tranh đối các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp vật liệu trong nước.

Nguồn: Bộ Công Thương

28/ FTA thế hệ mới – hỗ trợ Việt Nam phục hồi kinh tế nhanh hơn

Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vẫn còn những diễn biến khó lường thì việc ký kết thêm các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA và UKVFTA hay quy mô lớn như RECP đã đưa Việt Nam trở thành một nơi thuận lợi cho đầu tư quốc tế. Vắn gọn, các FTA thế hệ mới này được xem là hỗ trợ giúp doanh nghiệp gặp khó khăn sau đại dịch.

Thứ nhất, Việt Nam với gần 100 triệu dân là một thị trường hấp dẫn và bùng nổ và các FTA thế hệ mới là động lực đáng kể cho đầu tư từ các thành viên ký kết các FTA này như: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore  (CPTPP) và 27 quốc gia thuộc thị trường EU, các quốc gia ASEAN + 5 (Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand) thuộc RECP.

Thứ hai, tác động tích cực của các FTA mới được ký kết và thực hiện này đối với tình hình kinh tế – chính trị của Việt Nam. Trong những năm gần đây, cả nước đã và đang chuẩn bị cho mình những cơ hội và lợi thế đầu tư được tạo ra bởi các hiệp định thương mại mới được ký kết và thực hiện. Tình hình  được cải thiện trong nước đang báo hiệu một điểm đến ổn định, đáng tin cậy và phát triển nhanh chóng và chính phủ đáng tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế.

Ví dụ, để chuẩn bị cho yêu cầu chặt chẽ hơn về quy tắc xuất xứ, Việt Nam, với quyết tâm chính trị của Chính phủ, đã và đang đa dạng hóa nguồn sản xuất, đầu tư vào các ngành công nghiệp hỗ trợ và các nhà cung cấp trong nước, thảo luận với các doanh nghiệp FDI về việc nâng cao năng lực của các nhà cung cấp trong nước và hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) không dựa vào một quốc gia cụ thể như Trung Quốc như trước đây.

Thứ ba, trong thời điểm khó khăn này của COVID-19 cùng làn sóng bảo hộ của các quốc gia trên thế giới, các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA và UKVFTA hay RECP mà Việt Nam đang tham gia sẽ mở cửa cho các dòng chảy thương mại và đầu tư quốc tế.

Mạng lưới các FTA còn giúp Việt Nam giảm thiểu tác động của sự suy giảm hệ thống thương mại đa phương. Chiến tranh thương mại giữa các nền kinh tế lớn, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng vai trò của hệ thống thương mại đa phương.

Trong bối cảnh đó, các FTA đã phát huy vai trò diễn đàn đối thoại cũng như khuôn khổ pháp lý để giải quyết các vấn đề thương mại giữa Việt Nam và các đối tác hàng đầu của mình, giúp chúng ta giảm thiểu các tranh chấp ảnh hưởng tiêu cực tới thương mại.

Nguồn: Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp

BSA Tổng hợp

Pacific Foods cùng đối tác hỗ trợ 27 tấn lương thực, nông sản và 10.000 khẩu trang kháng khuẩn cho TP.HCM