Tận dụng tốt các ưu đãi về thuế quan trong FTA đã ký kết để mở rộng thị trường xuất khẩu.

1/ Sương lạnh đổ bộ ảnh hưởng xấu đến các vùng trồng Cà phê, Mía đường, và Ngô tại Brazil | Sự hồi phục của Đồng bạc xanh Dollar so với Đồng nhân dân tệ Yuan

  • Thứ Tư rồi 30/7, sương lạnh tấn công vùng trồng hạt Cà phê Arabica, nam Minas Gerais và Mogiana tại Brazil . Ngay cả vùng trồng Mía đường tại thủ phủ Sao Paulo, miền nam Mato Grosso do Sul lẫn phía bắc Parana – vùng trồng Ngô đều chịu ảnh hưởng lớn của đợt gió lạnh này.

  • Trong khi Đồng bạc xanh Dollar vẫn tiếp tục phục hồi và ổn định, cũng như việc các loại hàng hóa tăng giá khi nền kinh tế thế giới bắt đầu mở cửa trở lại, đồng Nhân dân tệ Yuan của Trung Quốc tiếp tục trượt giá so với đồng Dollar vào thứ 5, 24/06 vừa rồi. Đây là đợt rớt giá tồi tệ nhất trong 1 tháng kể từ lần cuối tháng 8, 2019. Sau 3 năm liên tiếp với xu hướng tăng mạnh hơn Đồng bạc xanh, việc Ngân hàng trung ương Mỹ (Fed) tuyên bố khả năng tăng lãi xuất trần, khiến không chỉ giá trái phiếu chính phủ tăng, mà đồng thời tạo thêm áp lực lên các đồng tiền khác, trong đó có đồng Nhân dân tệ. Giới tài chính dự báo chính phủ Trung Quốc sẽ không có nhiều động thái để can thiệp vào nội tệ của họ như trước mà sẽ quan sát.

2/ Xuất khẩu nông, thủy sản sang Pháp cần phải bài bản

Dù là thị trường lớn, kim ngạch XK nhóm hàng nông, thủy sản sang Pháp chiếm tỷ trọng không cao. Do đó, để tạo ra chuyển biến mạnh mẽ hơn, cần chiến lược và hành động bài bản.

Mới đây, lô vải thiều Thanh Hà đầu tiên gắn tem truy xuất nguồn gốc itrace247 đã có mặt tại hệ thống siêu thị Á Châu tại Paris (Pháp). Với tem truy xuất nguồn gốc itrace247, người tiêu dùng tại Pháp có thể ngay lập tức tiếp cận toàn bộ lịch trình chi tiết từ quá trình nuôi trồng, chăm sóc thu hoạch hay đóng gói đều được hiển thị rõ ràng theo trình tự thời gian.

Cùng với trái vải, số liệu thống kê từ Trung tâm Thương mại quốc tế cho thấy, quý I/2021, Pháp giảm nhập khẩu hạt điều từ nhiều nguồn cung, nhưng tăng mạnh từ Việt Nam, Hà Lan.

Nâng cao năng lực cạnh tranh

Theo Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ (Bộ Công Thương), XK hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Pháp phần lớn là các mặt hàng thuộc nhóm công nghiệp chế biến. Đối với nhóm hàng nông, thủy sản, kim ngạch XK mới chiếm tỷ trọng chưa đến 10% trên tổng kim ngạch XK sang Pháp. Trong đó, XK nhiều sản phẩm nông nghiệp thế mạnh của Việt Nam và được ưa chuộng tại các thị trường EU như thủy sản, hạt điều hay cà phê mới chỉ đạt kim ngạch thấp dưới 100 triệu USD.

Để sự hiện diện nhiều hơn của nông, thủy sản Việt tại thị trường Pháp, các chuyên gia cho rằng, cần có những chiến lược để thu hút. Giá bán hợp lý cũng là một yếu tố để có thể đưa hàng hóa vào được chợ đầu mối Rungis hoặc các hệ thống siêu thị đối tác tiềm năng. Bên cạnh đó, cần có chương trình hành động bài bản, kiên trì theo đuổi các đối tác tiềm năng, xây dựng lòng tin cũng như chứng minh được năng lực hợp tác và chất lượng sản phẩm. Khâu vận chuyển là khó khăn chung đối với đa số các công ty XK Việt Nam. Tuy nhiên, nếu thuyết phục được nhà nhập khẩu về chất lượng sản phẩm, các nhà XK nông, thủy sản Việt Nam còn có được một lợi thế khác. Cụ thể, với mức thuế gần như bằng không, giá bán đến người tiêu dùng sẽ cạnh tranh hơn so với những sản phẩm cùng chủng loại được nhập từ các nước khác, không có EVFTA.

Nguồn: Báo Công Thương

3/ Việt Nam sẽ là thị trường nghiệp lớn thứ năm của nông phẩm Úc

Thông tin trên được bà Karla Lampe, người phụ trách bộ phận đầu tư toàn cầu thuộc Cơ quan Đầu tư bang New South Wales, cho biết, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững ở Việt Nam trong nhiều năm qua đã khiến thị trường này trở thành điểm đến hấp dẫn của các doanh nghiệp bang New South Wales. Các yếu tố thuận lợi về nhân khẩu, hệ thống giáo dục tốt, tầng lớp trung lưu ngày càng tăng đang tạo thêm nhiều cơ hội thương mại và đầu tư cho các doanh nghiệp Australia.

Đầu năm nay, Cơ quan đầu tư của bang đã thiết lập sự hiện diện tại Việt Nam thông qua việc bổ nhiệm đại diện tại văn phòng Cơ quan Thương mại và Đầu tư Chính phủ Australia (Austrade) tại Thành phố.

Trong cuộc tham vấn mới đây với các doanh nghiệp địa phương, họ cho biết, họ xác định công nghệ nông nghiệp và thực phẩm, đồ uống là các ưu tiên hàng đầu cho việc thâm nhập vào thị trường Việt Nam.

Theo bà Ball, các doanh nghiệp Australia có thể giới thiệu các giải pháp công nghệ nông nghiệp, giúp Việt Nam tăng năng suất trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản, quản lý nguồn nước và thức ăn chăn nuôi, quản lý sâu bệnh, truy xuất nguồn gốc và bảo đảm chất lượng sản phẩm, qua đó ứng phó tốt hơn với các thách thức an ninh lương thực và an toàn thực phẩm.

Bà Ball cho biết thêm, trong quý I/2021, xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Australia sang thị trường Việt Nam tăng 44% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhiều khả năng Việt Nam sẽ trở thành thị trường xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp lớn thứ năm của Australia trong năm 2021, so với mức xếp hạng thứ 9 hiện nay.

Cũng tại Hội thảo, đại diện một số doanh nghiệp và tổ chức của Australia như tập đoàn phân phối gạo Sunrice, Cơ quan nghiên cứu khoa học của chính phủ Australia (CSIRO)… đã chia sẻ những bí quyết kinh doanh thành công tại Việt Nam và trả lời các câu hỏi của các doanh nghiệp đang mong muốn đầu tư và kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ nông nghiệp và thực phẩm, đồ uống…

Nguồn: Báo Thế giới và Việt Nam

4/ Vì sao thủy sản sang Trung Quốc giảm?

Liên tiếp giảm sâu trong 2 tháng gần đây khiến xuất khẩu (XK) thuỷ sản của doanh nghiệp Việt Nam sang Trung Quốc 5 tháng đầu năm 2021 giảm 6%, đạt 405 triệu USD.

Cụ thể, từ tháng 4/2021, XK thuỷ sản sang Trung Quốc giảm 11%, sang tháng 5 tiếp tục giảm sâu hơn, với mức giảm 22%. Trong đó, XK giảm sâu ở tất cả các nhóm sản phẩm chính: tôm giảm 35%, cá biển khác (trừ cá ngừ) giảm 23%, cá tra giảm 5%.

Tác động của đại dịch Covid và động thái của Trung Quốc tạo ra 2 xu hướng trong XK thuỷ sản Việt Nam sang thị trường này, đó là sản phẩm tươi, đông lạnh giảm mạnh, XK hàng khô, hàng chế biến tăng. Theo đó, XK tôm sú tươi, sống, đông lạnh giảm sâu 25% trong tháng 5 và giảm 26% trong 5 tháng đầu năm đạt 46 triệu USD, trong khi tôm sú chế biến tăng 278% đạt 1,4 triệu USD.

Không để đứt gãy sản xuất

Theo bà Lê Hằng, Phó Giám đốc Trung tâm VASEP.PRO, việc Trung Quốc tăng cường kiểm soát chặt hàng nhập khẩu, ngoài lý do liên quan đến Covid-19 còn vì chiến tranh thương mại với Mỹ – thị trường nhập khẩu lớn nhất của Trung Quốc. Do đó, theo một số chuyên gia nhận định, Trung Quốc muốn người tiêu dùng, nhà chế biến thuỷ sản nước này tập trung tiêu thụ nguồn nguyên liệu trong nước.

Từ tháng 7/2020 đến nay, Trung Quốc liên tục đình chỉ nhập khẩu đối với tôm từ các nước Ấn Độ, Ecuador, Indonesia… và cá hồi, cá minh thái từ Nga. Tình trạng này dẫn đến thiếu hụt sản phẩm cá minh thái chế biến trên thị trường Mỹ và châu Âu trong năm nay. Đây có thể là cơ hội cho cá tra Việt Nam, bù đắp cho thiếu hụt nguồn cá thịt trắng trên thị trường EU và thị trường Mỹ.

Ngoài ra, khó khăn của ngành chế biến Trung Quốc có thể dẫn đến sự chuyển dịch hoạt động gia công chế biến cá thịt trắng từ Trung Quốc sang Việt Nam. Hiện nay, một số doanh nghiệp Việt Nam đang gia công, chế biến cá minh thái xuất khẩu đi Nhật Bản và Mỹ với giá trị 22 triệu USD trong 5 tháng đầu năm, chế biến XK cá tuyết đi châu Âu, Anh, Mỹ, Canada với gần 20 triệu USD.

Trong hơn 1 năm qua, Việt Nam được các nhà nhập khẩu thế giới tìm đến như là một nguồn cung cấp thuỷ sản tin cậy, vì kiểm soát dịch Covid-19 tốt, sản lượng sản xuất và chế biến ổn định, chất lượng đảm bảo, trong khi Ấn Độ, Thái Lan và một số nước sản xuất khác bị ảnh hưởng nặng nề.

Trước tình hình này, VASEP cho rằng, việc triển khai sớm và nhanh tiêm phòng vắc xin cho công nhân, người lao động tại các nhà máy chế biến thuỷ sản là rất cấp bách để doanh nghiệp ổn định, yên tâm duy trì sản xuất, xuất khẩu.

Nguồn: Báo Hải quan

5/ Tạo thuận lợi tối đa trong cấp C/O?

Theo Bộ Công Thương, 5 năm gần đây, kinh tế thế giới có nhiều biến động, tuy nhiên, xuất nhập khẩu của nước ta vẫn đạt được những kết quả tích cực. Nhiều doanh nghiệp (DN) đã tận dụng được ưu đãi từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) để gia tăng kim ngạch xuất khẩu (XK).

Nâng cao tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan

Theo Bộ Công Thương, 5 năm gần đây, tổng kim ngạch XK sử dụng các loại Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) ưu đãi theo FTA trung bình đạt 32 -34%/năm. Kết quả này phản ánh, DN và hàng hóa XK từ Việt Nam đang dần nâng cao tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan tại các thị trường có FTA với Việt Nam.Đơn cử, kể từ khi FTA Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực (ngày 1/8/2020) đến ngày 4/6/2021, các cơ quan, tổ chức được ủy quyền cấp C/O mẫu EUR.1 đã cấp 180.551 bộ C/O mẫu EUR.1 với kim ngạch hơn 6,6 tỷ USD đi 27 nước EU. Ngoài ra, các DN XK hàng hóa sang EU còn thực hiện tự chứng nhận xuất xứ cho 4.845 lô hàng với trị giá hơn 14,91 triệu USD được hưởng ưu đãi thuế quan theo EVFTA.

Tuy nhiên, tỷ lệ kim ngạch hàng hóa XK sử dụng ưu đãi thuế quan theo các FTA trong tổng kim ngạch XK còn tương đối thấp. Nguyên nhân chủ yếu do những vấn đề liên quan tới quy tắc xuất xứ

Bên cạnh đó, tự chứng nhận xuất xứ là cơ chế chứng nhận xuất xứ hiện đại, đã trở thành tiêu chuẩn ở nhiều nước. Cơ chế này cho phép loại bỏ thủ tục xin chứng nhận xuất xứ tại cơ quan có thẩm quyền, tiết kiệm được rất nhiều thời gian, nguồn lực cho DN.

Tháo gỡ khó khăn về xuất xứ hàng hóa

Thực tế, thời gian qua, Bộ Công Thương đã triển khai nhiều giải pháp nhằm tạo điều kiện tối đa về cấp C/O cho DN. Đơn cử, để góp phần tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ tiêu thụ nông sản của các địa phương, ngày 25/5/2021, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) đã ban hành Công văn số 334/XNK-XXHH đề nghị các Phòng Quản lý xuất nhập khẩu khu vực tạo điều kiện thuận lợi nhất khi cấp C/O cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu, đặc biệt là nông sản tại các địa phương đang chịu ảnh hưởng của dịch bệnh như Bắc Giang, Hải Dương và những mặt hàng đang vào vụ, có thời gian thu hoạch ngắn.

Tuy nhiên, trước bối cảnh tình trạng gian lận xuất xứ hàng hóa đang diễn biến phức tạp, để phòng, chống gian lận xuất xứ hàng hóa và đảm bảo các lô hàng cấp C/O được hưởng ưu đãi thuế quan, Cục Xuất nhập khẩu đã ban hành Công văn số 349/XNK-XXHH đề nghị các cơ quan, tổ chức được ủy quyền cấp C/O ưu đãi thực hiện một số nội dung nhằm đẩy mạnh công tác kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa.

Cụ thể, Cục Xuất nhập khẩu đề nghị thực hiện nghiêm túc Quyết định số 824/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ”. Bên cạnh đó, tăng cường kiểm tra chặt chẽ hồ sơ đề nghị cấp C/O đối với hàng hóa xuất khẩu có nguy cơ gian lận xuất xứ. Ngoài ra, lưu ý các mặt hàng thuộc danh sách theo dõi các mặt hàng có nguy cơ bị điều tra phòng vệ thương mại, chống lẩn tránh thuế được Bộ Công Thương (Cục Phòng vệ thương mại) thông báo và cập nhật hàng quý và các mặt hàng DN từ trước tới nay chưa (hoặc ít khi) đề nghị cấp C/O.

Nguồn: Báo Công Thương

Hàng thủy sản có cơ hội gia tăng xuất khẩu vào thị trường Pháp

6/ Chuyên gia Đức Andreas Stoffers: Kinh tế Việt Nam đủ mạnh để tự phục hồi

GS.TS Andreas Stoffers, Giám đốc Quốc gia của Viện Friedrich Naumann Foundation (FNF) tại Việt Nam cho rằng, ông mong đợi sự phục hồi kinh tế Việt Nam, bất chấp môi trường kinh tế toàn cầu đang khó khăn bởi quốc gia này đã sẵn sàng để định vị lại chính mình.

Ông đánh giá thế nào về tác động của làn sóng Covid-19 đến kinh tế và Việt Nam?

Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, những tín hiệu khả quan trong năm tháng đầu năm 2021, ví dụ trong ngành sản xuất công nghiệp. Hiện tại, Chính phủ cần sáng suốt quyết định các biện pháp chống dịch sắp tới để đảm bảo cả sự an toàn của người dân và sự phát triển trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế.

Còn doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp Đức tại Việt Nam đang chịu tác động thế nào, thưa ông?

Giống như các doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp Đức hoạt động tại Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi làn sóng Covid 19 mới và đặc biệt dưới tác động các biện pháp của Chính phủ để đối phó với dịch bệnh.

Theo khảo sát của Phòng Thương mại Đức với 4.500 công ty Đức (trong đó có các công ty đang hoạt động tại Việt Nam), 55,3% công ty Đức kỳ vọng, tình hình sản xuất kinh doanh của mình tại Việt Nam năm 2021 sẽ được cải thiện so với năm trước.

Điều này đưa Việt Nam lên vị trí hàng đầu trong ASEAN (với 40,3%, không bao gồm Myanmar). Chỉ 10,5% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sẽ khó khăn hơn năm 2020.

Kỳ vọng vào tương lai của doanh nghiệp, khảo sát cũng cho thấy sự lạc quan của doanh nghiệp Đức với môi trường kinh doanh tại Việt Nam. 65,8% doanh nghiệp được hỏi kỳ vọng, hoạt động kinh doanh của họ sẽ tốt hơn hoặc vượt bậc ở Việt Nam trong 12 tháng tới (ASEAN: 51%, không bao gồm Myanmar). Thậm chí, có tới 47,4% muốn tăng đầu tư (ASEAN 27,7%, không bao gồm Myanmar).

Các gói hỗ trợ trước đây của Việt Nam là thận trọng và vừa đủ. Những tác động tích cực của các gói hỗ trợ này có thể được nhìn thấy ở khắp mọi nơi. Việt Nam đã vượt qua khủng hoảng tốt hơn hầu hết các quốc gia khác trên thế giới.

Theo các doanh nghiệp Đức, vấn đề thiếu nhu cầu (41,7%) và thiếu lao động có tay nghề tốt (41,7%) là những yếu tố ảnh hưởng chính đến hoạt động kinh doanh của họ. Hầu hết các doanh nghiệp bị hạn chế đi lại (83,8%), ít nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ (40,5%) và phải hủy bỏ các hội chợ và sự kiện thương mại (37,8%).

Tóm lại, cho đến nay, các công ty Đức vẫn thể hiện sự lạc quan về Việt Nam nói chung và các hoạt động kinh doanh tại đây nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn sớm để đánh giá tương lai sẽ như thế nào, bởi điều này còn phụ thuộc rất nhiều vào nhiều yếu tố.

Các gói hỗ trợ thận trọng và vừa đủ

Việt Nam đã trải qua 3 làn sóng Covid-19 và đã có nhiều gói hỗ trợ doanh nghiệp. Ông đánh giá thế nào về những gói hỗ trợ này?

Về chính sách tiền tệ, Việt Nam đã không tham gia vào “cuộc chơi” in tiền không giới hạn (theo Lý thuyết tiền tệ hiện đại), cũng như áp dụng chính sách lãi suất bằng 0 tai hại. Do đó, lạm phát và năng lực hành động của nhà nước vẫn đang trong kiểm soát.

Trong khi nợ công ở những nơi khác bùng nổ (Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF): Đức 70%, Hy Lạp 210%, Italy 157%), nợ công của Việt Nam vẫn ở mức 48% GDP vào năm 2020 (theo báo cáo của Bộ Tài chính) và đạt dưới mức trần 65% của Quốc hội. .

Tôi đánh giá, Việt Nam thực sự đã chuẩn bị tốt cho giai đoạn tới nhờ các chính sách tài khóa và tiền tệ phù hợp.

Với tình hình hiện tại, theo ông, có cần thêm những gói hỗ trợ mới cho doanh nghiệp không?

Theo tôi, Chính phủ có thể có các gói hỗ trợ kinh tế nhưng cần dựa trên các biện pháp thành công của năm vừa qua. Cụ thể là không được để vượt quá mức trần dư nợ quốc gia do Quốc hội quy định.

Với tất cả các khoản nợ, một quốc gia phải nhận thức rằng, nợ sẽ phải được hoàn trả vào một thời điểm nào đó. Điều này dẫn đến hậu quả là gia tăng lạm phát hoặc khiến cho nền kinh tế yếu đi. Nợ nần nhiều thậm chí có thể dẫn tới sự sụp đổ của cả nền kinh tế. Tất nhiên, tất cả những giả thiết trên đều không quốc gia nào mong muốn.

Tôi cho rằng, nền kinh tế Việt Nam đủ mạnh để tự mình thoát ra khỏi khủng hoảng. Tuy nhiên, bên cạnh các biện pháp đã thực hiện cho đến nay để mở cửa nền kinh tế, điều quan trọng là phải tăng hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, số hóa nền kinh tế và thành lập cơ quan xếp hạng tín nhiệm quốc gia (theo đề xuất của TS. Nguyễn Trí Hiếu).

Tôi cũng đánh giá, sự hỗ trợ tốt nhất sẽ là mở cửa kinh tế trở lại. Chính phủ Việt Nam cần phải cân nhắc việc này ngay cả khi người dân chưa được tiêm chủng vaccine ngừa Covid-19 trên diện rộng. Ví dụ, Texas và Florida mở cửa, trong khi phần lớn dân số chưa được tiêm chủng vaccine (tại Texas 38,7% người dân đã tiêm chủng, Florida 42,7%). Theo một nghiên cứu của Đại học Stanford, tỷ lệ sống sót đối với Covid-19 vẫn là khoảng 99,85%.

Công thức chung cho sự thành công

Ông dự đoán thế nào về triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm nay?

Cũng như năm trước, Việt Nam sẽ tiếp tục phải đối mặt với những thách thức to lớn trong năm 2021. Thế giới đã công nhận Việt Nam là một trong những quốc gia đã vượt qua khủng hoảng năm 2020 một cách tốt nhất. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ tiếp tục phải đối mặt với những thách thức tương tự vào năm nay. Năm 2021, công thức chung cho thành công của Việt Nam sẽ là:

Thứ nhất, thúc đẩy tự do hóa thương mại và các Hiệp định Thương mại tự do (như EVFTA, UKVFTA).

Thứ hai, tiếp tục các chính sách tài khóa và tiền tệ chặt chẽ, thận trọng (không để nợ công vượt quá trần, không đưa ra chính sách lãi suất bằng 0).

Thứ ba, đưa ra các chính sách kinh tế và quy định hấp dẫn hơn với nhà đầu tư (đơn cử như Luật đầu tư mới của Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1/1). Sự can thiệp của nhà nước sẽ làm giảm sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

Nếu Việt Nam tiếp tục con đường này thì rất có thể, quốc gia này sẽ tiếp nối câu chuyện thành công của năm ngoái. Tuy nhiên, không ai đoán trước được về sự phát triển của dịch bệnh. Suy thoái kinh tế bởi Covid-19 tại các nước đối tác quan trọng của Việt Nam cũng là một mối đe dọa.

Một khó khăn nữa là việc áp dụng các biện pháp để cân bằng giữa hậu quả của dịch bệnh và tác động của các biện pháp chống dịch. Chúng ta cần cân nhắc để chắc chắn rằng, thuốc chữa bệnh không mang lại tác dụng xấu hơn bệnh.

Năm 2020, Việt Nam đã đạt mục tiêu kép, vừa kiểm soát được đại dịch, vừa duy trì khôi phục các hoạt động kinh tế để thực hiện mục tiêu tăng trưởng. Còn năm nay, Việt Nam có thể tiếp tục đạt mục tiêu này không, thưa ông?

Việt Nam cần tiếp tục duy trì sự cân bằng ở các yếu tố: sức khoẻ người dân, sức khỏe nền kinh tế, sự hạnh phúc cũng như tự do của mọi người. Nếu chỉ chú ý đến yếu tố thứ nhất mà bỏ quên các yếu tố còn lại, những tác động tiêu cực như sự nghèo nàn của một quốc gia cũng có thể dẫn đến tử vong.

Tôi nghĩ, Việt Nam đã tính đến tất cả những điều này và không để nền kinh tế bị suy sụp vào năm 2020. Tôi mong đợi một sự phục hồi – bất chấp môi trường kinh tế toàn cầu đang khó khăn. Tôi tin rằng, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế khả quan vẫn có thể đạt được trong năm 2021. Mô hình có thể giống với số tiểu bang ở Mỹ, nơi tất cả các biện pháp chống dịch đã ngừng áp dụng ngay cả khi dân số chưa được tiêm chủng toàn bộ.

Nguồn: Báo Thế giới và Việt Nam

7/ Đơn hàng tăng 30%, xuất khẩu gỗ đạt 16 tỷ USD “trong tầm tay”

Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc là 4 thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2021, chiếm 84,9% tổng trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ.

Cụ thể, nhu cầu nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tại thị trường Hoa Kỳ tiếp tục tăng cao và có xu hướng tiêu dùng thay đổi để thích ứng với tình hình mới.

Ngoài ra, lợi thế từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) giúp ngành gỗ Việt Nam gia tăng sức cạnh tranh về giá so với các sản phẩm cùng loại với các đối thủ cạnh tranh tại thị trường EU.

Xuất khẩu gỗ sang thị trường Canada cũng đang tiếp tục tận dụng tốt cơ hội từ Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Duơng (CPTPP), đặc biệt là đối với nhóm mặt hàng đồ nội thất bằng gỗ.

Theo đánh giá của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, đơn hàng cho các tháng còn lại của năm 2021 tiếp tục tăng, phần lớn doanh nghiệp ngành gỗ đã nhận được các đơn hàng cho tới cuối năm 2021. Ước tính đơn hàng tăng 30% so với năm 2020.

Cơ quan Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) đã khởi xướng điều tra 301, cáo buộc Việt Nam nhập khẩu và sử dụng gỗ bất hợp pháp. Phía Việt Nam đã tham dự điều trần và đã cung cấp nhiều bằng chứng Việt Nam nỗ lực loại bỏ toàn bộ gỗ bất hợp pháp ra khỏi chuỗi cung.

Các doanh nghiệp gỗ Việt tuyệt đối tuân thủ Đạo luật Lacey Act của Mỹ khi xuất khẩu sản phẩm gỗ vào thị trường nước này. Cho đến nay, USTR chưa có thông báo gì về diễn tiến của điều tra 301 ngành gỗ.

Ngoài ra, tháng 6/2020, Bộ Thương mại Hoa Kỳ cũng đã khởi xướng điều tra sản phẩm gỗ dán nhập khẩu từ Việt Nam vì cho rằng nhiều doanh nghiệp Trung Quốc gian lận xuất xứ Việt Nam để lẩn tránh thuế. Các doanh nghiệp đã giải trình theo yêu cầu của phía Hoa Kỳ.

Ngay trong tháng 3/2021 vừa qua, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã yêu cầu trên 60 doanh nghiệp gỗ dán của Việt Nam giải trình nhiều câu hỏi liên quan đến xuất khẩu gỗ dán vào thị trường nước này. Các doanh nghiệp sản xuất tủ bếp, tủ buồng tắm và nhiều loại đồ gỗ nội, ngoại thất của Việt Nam cũng có thể sẽ phải đối diện với nguy cơ tương tự tại thị trường Hoa Kỳ.

Một góc độ khó khăn khác đựơc Bộ Công Thuơng đề cập tới là ngành gỗ đang thiếu trầm trọng nguồn nhân lực, đặc biệt là công nhân kỹ thuật trong khi hệ thống các trường đào tạo nghề, trường đại học tuyển sinh viên rất khó khăn.

Theo thống kê của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, ngành gỗ tạo việc làm cho trên 500.000 lao động nhưng gần 80% nhân lực trong ngành gỗ là lao động phổ thông, lao động qua đào tạo chỉ chiếm 20%, khoảng 1-2% còn lại là nhà thiết kế. Điều này dẫn tới năng suất lao động của ngành gỗ thấp, chỉ bằng 40% so với Trung Quốc và 20% so với EU.

Trong bối cảnh hiện tại, Bộ Công Thuơng dự báo, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ cả năm sẽ đạt khoảng 15-16 tỷ USD. Con số này đã vượt cao hơn mục tiêu mà toàn ngành lâm sản đặt ra từ đầu năm là khoảng 14,5 tỷ USD.

Ước trị giá nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 5 tháng đầu năm 2021 đạt 1,3 tỷ USD, tăng 40,4% so với cùng kỳ năm 2020. Trong 4 tháng đầu năm 2021, 33,5% trong tổng trị giá nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam là từ Trung Quốc; 10,9% từ Hoa Kỳ và 6,2% từ Thái Lan.

Nguồn: Báo Hải quan

8/ Singapore: tiềm năng cho nông sản Việt Nam

Quả vải xuất khẩu – Hướng đi bài bản

Trái vải Việt Nam đã có mặt tại thị trường Singapore trong hệ thống siêu thị, chính thức từ năm 2020. Ngay mùa xuất đầu tiên, Việt Nam đã vượt lên trở thành nước xuất khẩu vải lớn thứ 4 vào Singapore, vượt qua Madagascar – một cường quốc xuất khẩu vải thiều của thế giới. Cũng ngay mùa xuất đầu tiên, vải thiều đã lọt top 10 sản phẩm rau củ trái cây có giá trị xuất khẩu cao của Việt Nam vào Singapore. Tại các siêu thị, vải Việt Nam luôn ở tình trạng khan hiếm, cạnh tranh tốt với vải Trung Quốc dù mức giá cao hơn.

Để quảng bá cho trái vải Việt Nam tại địa bàn, Thương vụ Việt Nam tại Singapore đã cho in ấn standee, poster gắn sự kiện vải tươi Việt Nam mùa vụ mới với lễ hội Đoan Ngọ của người Hoa. Cổng thông tin điện tử của Thương vụ – trang tiếng Anh – cũng đăng tải bài viết giới thiệu lịch sử trái vải và các tác dụng dược lý, làm đẹp của trái vải. Hay trong các sự kiện kết nối với nhà nhập khẩu Singapore, Thương vụ đã chủ động mời chuyên gia Singapore – là tác giả của cuốn “Sổ tay hướng dẫn thực hành vải” cho người nông dân Việt Nam, người đã có hơn 10 năm gắn bó với trái vải Việt – để khách quan giới thiệu, thuyết phục nhà nhập khẩu về sự khác biệt nổi trội của chất lượng trái vải Việt Nam so với trái vải từ các vùng địa lý khác.

Nhiều dư địa cho tiêu thụ nông sản

Ngoài vải, bưởi, xoài là những trái cây mang tính mùa vụ, nhiều sản phẩm trái cây mới của Việt Nam bắt đầu có sự hiện diện cố định tại thị trường Singapore như: chanh leo, hồng xiêm, ổi xanh, ổi đỏ, chuối… Các nhà nhập khẩu Singapore hiện còn quan tâm đến nhiều sản phẩm khác của Việt Nam, đặc biệt là nhãn, vú sữa, mãng cầu, các loại rau ăn lá, các loại đậu bắp, đậu rồng, dưa chuột, bí ngồi, bầu…

Bà Trần Thu Quỳnh – Tham tán Thương mại Việt Nam tại Singapore cho biết, do không có nền nông nghiệp, Singapore phụ thuộc gần như hoàn toàn vào nhập khẩu, vì vậy, Singapore có mạng lưới bạn hàng cung cấp đa dạng bậc nhất thế giới từ 220 quốc gia và vùng lãnh thổ. Để đảm bảo an ninh lương thực và ổn định nguồn cung, các nhà nhập khẩu Singapore nhìn chung là những bạn hàng “trung thành”, uy tín, tin cậy. Mạng lưới doanh nhân người Hoa của Singapore hoàn toàn có thể trở thành bệ phóng cho trái vải Việt đi đến những thị trường mà các nhà xuất khẩu Việt Nam còn chưa có ưu thế.

Bên cạnh đó, tiềm năng hợp tác cùng các nhà sản xuất chế biến thực phẩm của Singapore cũng rất lớn vì hiện nay, Việt Nam và Singapore đều cùng có hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu và Anh quốc. Singapore có quota xuất khẩu miễn thuế 50.000 tấn thực phẩm chế biến vào châu Âu. Vì vậy, các nhà sản xuất Singapore rất quan tâm đến việc tìm kiếm nguồn cung nguyên liệu từ Việt Nam để tận dụng nguyên tắc xuất xứ.

Singapore cũng là nhà cung ứng thực phẩm Halal lớn cho thị trường thế giới với thị phần ngày càng mở rộng. Đây là các cơ hội cho Việt Nam có thể gia công OEM cho các thương hiệu Singapore. Nếu chúng ta khai thác được tốt các lợi thế này của bạn, triển vọng nông sản của Việt Nam sang thị trường sẽ ngày càng tốt hơn”, bà Trần Thu Quỳnh cho hay.

Tuy nhiên, để duy trì vị thế và tăng thị phần tại thị trường này, bà Trần Thu Quỳnh khuyến nghị, các doanh nghiệp cần chủ động làm công tác nghiên cứu thị trường ngành hàng.

Đơn cử trong xuất khẩu vải thiều, Trung Quốc có mô hình Tập đoàn Vải thiều Quảng Đông và Hiệp hội công nghiệp vải Quảng Đông vận hành toàn bộ chuỗi giá trị ngành vải, liên kết các trang trại và doanh nghiệp xuất khẩu chặt chẽ với nhau. Giá trị xuất khẩu của Tập đoàn Vải thiều Quảng Đông lên đến 10 tỷ USD/năm (2018). Madagascar cũng là một trường hợp đáng nghiên cứu vì mặc dù chất lượng trái vải rất thấp so với các vùng địa lý xuất khẩu vải khác nhưng vải Madagascar luôn được định vị là “trái cây cao cấp”, có mức giá xuất khẩu ở phân khúc cao nhất.

Trong bối cảnh ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh (Ấn Độ, Thái Lan bắt đầu phát triển mạnh các trang trại trồng vải), bà Trần Thu Quỳnh cho rằng, các doanh nghiệp càng phải làm tốt công tác định vị thương hiệu và xây dựng chiến lược giá.

Chiến lược kinh doanh của nhóm hàng nông sản sẽ rất khác biệt với nhóm hàng công nghệ hay thực phẩm chế biến, vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu càng cần xác định chiến lược thâm nhập thị trường bền vững, ổn định, dựa trên chữ tín và tinh thần đối tác, tránh cách thức chụp giật, thời điểm”, bà Trần Thu Quỳnh chia sẻ.

Trong quý 3/2021, Thương vụ sẽ triển khai thí điểm tổ chức tổ chức lần đầu tiên một Triển lãm hybrid ở Singapore nhằm quảng bá các sản phẩm thực phẩm chế biến và Halal của Việt Nam đạt Thương hiệu quốc gia (Vietnam Value). Đây sẽ là triển lãm đầu tiên của Việt Nam ở nước ngoài sau 2 năm dịch Covid với sản phẩm được vận chuyển sang Singapore và trưng bày tại các gian hàng để doanh nghiệp Singapore tham quan, lựa chọn, dùng thử…

Nguồn: Báo Công Thương

Tại các siêu thị ở Singapore, vải Việt Nam luôn ở tình trạng khan hiếm, cạnh tranh tốt với vải Trung Quốc dù mức giá cao hơn

9/ uất khẩu gạo của Việt Nam đang mất lợi thế, thị trường kém sôi động

Xuất khẩu gạo sang thị trường lớn nhất gặp bất lợi

Philippines là thị trường xuất khẩu gạo trắng lớn nhất của Việt Nam, nhưng hiện nay xuất khẩu gạo sang thị trường này đang chững lại do lượng gạo tồn khá lớn. Số liệu của Cơ quan Thống kê Philippines (PSA) cho thấy, lượng gạo tồn trong kho của Philippines chỉ riêng 4 tháng đầu năm 2021 đã lên tới 2,444 triệu tấn.

Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – NNPTNT), mặc dù vẫn là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2021 với 35,6% thị phần, nhưng xuất khẩu gạo Philippines trong 4 tháng đầu năm 2021 đã giảm 20,7% về khối lượng và giảm 4,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020 (đạt 715,7 nghìn tấn và 381,4 triệu USD).

“Mới đây, để đảm bảo an ninh lương thực và giảm lạm phát, Phillipines đã xoá bỏ sự chênh lệch về mức thuế giữa nhập khẩu từ ASEAN, ngoài ASEAN và MFN (nguyên tắc đối xử tối huệ quốc trong hệ thống thương mại đa phương tạo ra sự bình đẳng về cơ hội cạnh tranh giữa các thành viên khi cùng vào thị trường của một thành viên nào đó – PV) với mục tiêu tăng nhập khẩu gạo rẻ hơn từ Ấn Độ và Pakistan” – TS Nguyễn Quốc Toản – Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản – cho hay.

Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), từ khi Luật thuế hóa mặt hàng gạo của Philippines bắt đầu có hiệu lực đến nay, gạo Việt Nam khi xuất khẩu sang quốc gia này cả trong và ngoài hạn ngạch đang được hưởng mức thuế suất 35%, thấp hơn mức thuế áp dụng cho các nước xuất khẩu gạo truyền thống khác như Ấn Độ, Pakistan.

Tuy nhiên, từ 30.5.2021, Philippines giảm mức thuế nhập khẩu gạo xuống mức 35% thay cho mức 50% (trong hạn ngạch) và 40% (ngoài hạn ngạch) trong thời gian 1 năm đối với tất cả gạo nhập khẩu tại quốc gia này, đã làm giảm lợi thế của gạo Việt Nam, bởi các “đối thủ” xuất khẩu gạo như Ấn Độ, Pakistan cũng được hưởng mức thuế suất ưu đãi này.

Nguồn: Báo Lao động

10/ Canada tăng nhập khẩu gỗ từ Việt Nam

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam tới thị trường Canada trong tháng 5/2021 đạt 20,8 triệu USD, tăng 138,1% so 5/2020.

Trong đó, đồ nội thất phòng khách và phòng ăn, ghế khung gỗ, đồ nội thất phòng ngủ là 3 mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao nhất tới thị trường Canada. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đồ nội thất nhà bếp, ghế khung gỗ, đồ nội thất phòng khách và phòng ăn đạt tốc độ tăng trưởng rất cao sang thị trường Canada.

Đáng chú ý, gỗ và ván sàn xuất khẩu tới thị trường Canada đạt 5,1 triệu USD trong 4 tháng đầu năm 2021, tăng 203,8% so với cùng kỳ năm 2020. Tiếp theo là mặt hàng gỗ mỹ nghệ đạt 268 nghìn USD, tăng 472,7% so với cùng kỳ năm 2020.

Tại Canada, sau thời gian tạm lắng do ảnh hưởng của dịch Covid-19, thị trường nhà đất ở Canada bắt đầu nóng lên kể từ tháng 5/2020 đến nay và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Đây là lý do chính khiến nhu cầu nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ của Canada tăng mạnh.

Theo số liệu thống kê từ Cơ quan Thống kê Canada, trị giá nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ của Canada trong 4 tháng đầu năm 2021 đạt 847,84 triệu USD, tăng 45,6% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, Canada tăng mạnh nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc và Việt Nam. Nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 326,1 triệu USD, tăng 73,9%; Việt Nam đạt 152,1 triệu USD, tăng 62,5% so với cùng kỳ năm 2020.

Tốc độ tăng trưởng nhanh trong nhập khẩu từ Trung Quốc và Việt Nam vào thị trường Canada nhiều rủi ro. Cụ thể, từ ngày 5/5/2021, Cơ quan Dịch vụ biên giới Canada (Cơ quan điều tra – CBSA), quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp tạm thời đối với ghế bọc đệm từ Trung Quốc và Việt Nam. Đối với Việt Nam, ngoài 7 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bị Canada áp thuế bán phá giá và trợ cấp với sản phẩm ghế ngồi bọc nệm từ 17,44% – 89,77%, tất cả các công ty còn lại khi xuất mặt hàng này sang Canada đều bị áp mức thuế 101,5%.

Những năm gần đây do nhập khẩu tăng nhanh và xuất khẩu giảm, nên Canada đã chuyển sang nhập khẩu ròng các sản phẩm nội thất. Nhu cầu tiêu dùng tại thị trường Canada đối với các sản phẩm châu Á rất quan trọng đối với những người có thu nhập trung bình và thấp, những người không đủ khả năng mua các sản phẩm được sản xuất tại Canada.

Hội đồng bán lẻ Canada (RCC) đã thành lập một liên minh các nhà bán lẻ để phản đối mức thuế mới. Các mức thuế này vẫn có thể thay đổi khi CBSA đưa ra quyết định cuối cùng vào đầu tháng 8/2021. Vụ việc này sẽ được đưa ra Tòa án Thương mại Quốc tế Canada vào tháng 9/2021.

Canada là quốc gia có ngành công nghiệp gỗ rất mạnh với sản lượng lên tới 600 triệu m3/năm. Nhu cầu nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ của Canada tiếp tục tăng mạnh, trong bối cảnh ngành công nghiệp nội thất nước này giảm sản xuất trong nước do không thể cạnh tranh được với các thị trường nước ngoài có lợi thế chi phí rẻ hơn, trong đó có Việt Nam.

Với việc tham gia Hiệp định CPTPP, các sản phẩm đồ gỗ, nội ngoại thất của Việt Nam có thêm lợi thế cạnh tranh về giá tại thị trường Canada do được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi 0%.

Nguồn: Báo Công Thương

11/ Trung Quốc kiện Australia ra WTO về chống bán phá giá

Tại cuộc họp báo ngày 24/6, người phát ngôn Bộ Thương mại Trung Quốc Cao Phong cho biết vụ kiện là nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng của các công ty Trung Quốc.

Ngày 24/6, Trung Quốc đã đệ đơn kiện lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhằm vào các biện pháp chống bán phá giá mà Australia áp dụng đối với các sản phẩm như bánh xe tàu, turbin gió và bồn thép không gỉ từ năm 2019.

Động thái này được cho là sẽ tiếp tục làm leo thang căng thẳng giữa hai nước.

Tại họp báo ngày 24/6, người phát ngôn Bộ Thương mại Trung Quốc Cao Phong cho biết vụ kiện là nhằm “đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng của các công ty Trung Quốc. Chúng tôi hy vọng Australia sẽ có hành động cụ thể để sửa đổi các thông lệ sai trái của mình, tránh làm rối loạn các hoạt động buôn bán những sản phẩm liên quan và đưa hoạt động thương mại trở lại bình thường trong thời gian sớm nhất.”

Vụ kiện được đưa ra một tuần sau khi Canberra kiện Bắc Kinh về các mức thuế chống bán phá giá của Trung Quốc đối với rượu vang, khiến việc xuất khẩu của rượu vang của Australia vào thị trường Trung Quốc gần như chấm dứt hoàn toàn.

Trước đó, tháng 12/2020, Australia cũng đã chính thức khởi kiện Trung Quốc lên WTO về việc áp đặt mức thuế cao hơn 80% đối với mặt hàng lúa mạch xuất khẩu của Australia.

Phát biểu với báo giới tại Canberra, Bộ trưởng Thương mại Australia Dan Tehan cho biết nước này sẽ “bảo vệ mạnh mẽ các mức thuế mà chúng tôi đang thực thi.” Tuy nhiên, ông cho biết Canberra muốn “cam kết tích cực với Chính phủ Trung Quốc… sau khi phân tích kỹ lưỡng.”

Mối quan hệ thương mại giữa Australia và Trung Quốc ngày càng xấu đi khi nền kinh tế lớn thứ hai thế giới liên tục đưa ra các quyết định áp thuế cao đối với hàng hóa Australia.

Rất nhiều mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Australia bị áp thuế quá cao hoặc bị đình chỉ nhập khẩu vào Trung Quốc, như lúa mạch, sợi bông, thịt bò, tôm hùm, rượu vang, gỗ và than đá.

Mới đây nhất, ngày 26/3, Bộ Thương mại Trung Quốc thông báo áp đặt các mức thuế chống bán phá giá dao động từ 116,2% đến 218,4% đối với rượu vang Australia nhập khẩu, có hiệu lực trong 5 năm tới.

Các quan chức Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia cho biết giá trị thương mại của Australia với Trung Quốc tại hầu hết các ngành đã giảm mạnh 40% kể từ khi căng thẳng thương mại gia tăng.

Mới đây, hồi tháng Năm, Trung Quốc đã thông báo ngưng “vô thời hạn” đối thoại kinh tế với Australia, diễn biến mới nhất trong rạn nứt ngoại giao ngày càng lớn giữa hai quốc gia sau khi Australia cấm Tập đoàn công nghệ Huawei tham gia phát triển mạng 5G vào năm 2018.

Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Australia, chiếm 29% thương mại Australia với toàn cầu trong năm 2019. Đầu tư của Trung Quốc tại Australia đã giảm 61% trong năm 2020, đạt mức thấp nhất trong vòng 6 năm qua.

Nguồn: VietnamPlus

12/ Quy tắc xuất xứ: doanh nghiệp khó tận dụng ưu đãi từ FTA

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho hay, nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này chủ yếu là do những vẫn đề liên quan tới quy tắc xuất xứ. Cụ thể, nhiều doanh nghiệp không hiểu rõ về quy tắc xuất xứ, hoặc có thắc mắc cần tư vấn về cách thức đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ nhưng không tìm được đầu mối để có câu trả lời kịp thời, chính xác. Cùng với đó, một số quy tắc xuất xứ cam kết được giải thích theo hướng bất lợi cho doanh nghiệp trong việc đáp ứng, tận dụng.

Ngoài ra, ngôn ngữ trong các Thông tư về quy tắc xuất xứ theo FTA, không dễ hiểu, luôn cần được giải thích bởi cán bộ của Bộ Công Thương (chủ thể duy nhất ở Việt Nam có đủ chuyên môn để giải thích chính xác và có hiệu lực)

Sớm triển khai cơ chế tự chứng nhận xuất xứ

Tự chứng nhận xuất xứ là cơ chế chứng nhận xuất xứ hiện đại, đã trở thành tiêu chuẩn ở nhiều nước. VCCI cho biết, ngoại trừ 5-6 doanh nghiệp được tự chứng nhận xuất xứ theo mô hình thử nghiệm trong ASEAN (ATIGA), Việt Nam chưa áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ đối với bất kỳ FTA nào.

Việc bảo lưu chưa thực hiện cơ chế tự chứng nhận xuất xứ theo FTA được cho là cần thiết để các cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam liên quan có đủ thời gian để nâng cao năng lực, làm quen với cơ chế tự chịu trách nhiệm…

Tuy nhiên, từ 2020, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu đi EU theo GSP đã triển khai tự chứng nhận xuất xứ theo yêu cầu của EU (hệ thống REX). Liên quan tới trách nhiệm của doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ, trong cơ chế mới này, trách nhiệm của doanh nghiệp được nhấn mạnh và yêu cầu cao hơn.

Do vậy, VCCI đề nghị Bộ Công Thương nghiên cứu để trình Chính phủ quyết định triển khai cơ chế tự chứng nhận xuất xứ trong CPTPP sớm hơn thời hạn 2024/2029 mà Việt Nam bảo lưu theo cam kết và triển khai cơ chế tự chứng nhận trong EVFTA, UKVFTA đồng thời với cơ chế tự chứng nhận xuất xứ theo CPTPP.

Nguồn: Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh

13/ EVFTA: thẻ vàng cản trở Thủy sản Việt ra thế giới

Luật Thủy sản Việt Nam chưa có những biện pháp rắn “đánh” vào nồi cơm những tàu đánh bắt vi phạm, nên cả ngành thủy sản bị vạ lây.

Báo cáo từ Sở NN-PTNT tỉnh Hà Tĩnh cũng cho thấy từ năm 2020 đến nay, trên địa bàn tỉnh không có tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài. Hiện đã có 94/136 tàu cá của Hà Tĩnh lắp thiết bị giám sát hành trình (VMS), đạt 69,11%, còn 42 chiếc chưa lắp do có 3 chiếc đã hư hỏng giải bản, 13 chiếc bán ngoại tỉnh nhưng chủ tàu không thực hiện việc xóa đăng ký tàu cá theo quy định, 4 chiếc có chiều dài lớn nhất từ 15 m trở lên nhưng công suất dưới 50 CV, chủ tàu không thể ra khơi và 22 chiếc làm nghề lưới kéo, hiệu quả thấp cùng với tàu cá nằm bờ.

Tương tự, tỉnh Ninh Thuận cũng có báo cáo 708 tàu cá đã lắp thiết bị VMS và về cơ bản, tất cả tàu cá của Ninh Thuận hiện đang hoạt động tại các vùng khơi đã được giám sát thông qua hệ thống quản lý và giám sát tàu cá VMS của Tổng cục Thủy sản Việt Nam. Đại diện Chi cục Thủy sản tỉnh Ninh Thuận cũng nhấn mạnh nếu phát hiện tàu cá lắp đặt thiết bị nhưng không mở máy 24/24 giờ khi hoạt động khai thác hải sản trên biển, cơ quan chức năng sẽ xử lý nghiêm.

Báo cáo 5 tháng đầu năm 2021 của Tổng cục Thủy sản cho thấy xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng hơn 40% so cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu thủy sản tháng 5 đạt 750 triệu USD, lũy kế 5 tháng ước đạt 3,24 tỉ USD, tăng 12%. Có nhiều sản phẩm/nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu tăng như mặt hàng cá tra và tôm.

Về thị trường, thủy sản Việt Nam xuất sang 4 thị trường chính: Mỹ chiếm 24,6% với giá trị tăng 63,6% so với cùng kỳ năm trước; Trung Quốc chiếm 22,6%, giá trị tăng 36,2% so với cùng kỳ năm trước; Nhật Bản chiếm 6,6%, giá trị tăng 9,6% và Hàn Quốc chiếm 4,9%, giá trị tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước.

Trong khi đó, sau gần 4 năm (từ 10.2017) Việt Nam bị EC áp thẻ vàng IUU, thủy sản Việt Nam sang thị trường EU vẫn chưa tháo được thẻ vàng. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp cho hay thị trường EU tuy chưa chiếm kim ngạch xuất khẩu lớn nhưng là thị trường tiềm năng, có thể giúp các doanh nghiệp tận dụng được Hiệp định thương mại Việt Nam-EU (EVFTA). Với thẻ vàng EC, việc tận dụng hiệp định này coi như không có.

EU sụt giảm mạnh

Bà Nguyễn Thị Thu Sắc, Chủ tịch Ủy ban Hải sản (Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy hải sản Việt Nam – VASEP), cho biết từ khi bị EC áp thẻ vàng IUU, xuất khẩu hải sản Việt Nam vào EU đều rất khó khăn do kiểm tra rất gắt gao. Đầu vào thì EU yêu cầu chúng ta có giấy SC (giấy chứng nhận nguyên liệu thủy hải sản khai thác), đầu ra lại cần giấy CC (giấy chứng nhận đánh bắt). Chứng từ đi vào châu Âu bị kiểm soát nghiêm ngặt. Trong khi đó, nghề cá ở Việt Nam là nghề mà cả gia đình cùng làm, có thế mạnh do có lực lượng kế thừa. Tuy nhiên, việc đánh bắt tự phát, không tuân theo chuẩn mực khiến ngành hải sản của chúng ta vẫn chưa ra được khỏi bãi lầy của thẻ vàng.

“Hiện nay, xuất khẩu hải sản của Việt Nam vào châu Âu vẫn giảm 30%, trong khi lẽ ra với lợi thế EVFTA, thuế suất nhập khẩu giảm, phải tăng kim ngạch chứ không thể thế này được. Không chỉ với thị trường EU, nếu tình trạng không gỡ được thẻ vàng EC kéo dài hơn, xuất khẩu thủy sản sang các thị trường khác cũng bị ảnh hưởng theo”, bà Sắc nhấn mạnh.

Thông tin từ cuộc họp trực tuyến giữa Ủy ban Hải sản VASEP, Ban điều hành chương trình chống khai thác IUU của VASEP, Tổng cục Thủy sản, Cục Thú y cùng với các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu hải sản vào đầu tháng 6 vừa qua cho thấy có một số bất cập liên quan trong nỗ lực gỡ thẻ vàng của EC với thủy sản Việt.

Theo bà Sắc, Thái Lan mất 4 năm để gỡ thẻ vàng của EC và họ thành công nhờ quyết liệt xử lý người đánh bắt cá vi phạm. Chẳng hạn, sau khi được báo cáo có tàu vi phạm, ngoài mức xử phạt bằng tiền lớn, chính sách của Thái Lan là neo lại tàu thuyền đó, sơn đen, không cho ra khơi trong thời gian nhất định. Luật Thủy sản Việt Nam chưa có những biện pháp rắn “đánh” vào nồi cơm những tàu đánh bắt vi phạm, nên cả ngành thủy sản bị vạ lây.

Nguồn: Báo Thanh niên

14/ Trung Quốc kiện ngược Australia ra WTO

Trung Quốc đã nộp đơn khiếu nại Úc lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về việc Canberra áp thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp lên bánh xe lửa, tháp gió và bồn rửa bằng thép không gỉ của Trung Quốc.

Bộ Thương mại Trung Quốc chiều 24.6 xác nhận việc nộp đơn khiếu nại, “Trung Quốc phản đối việc lạm dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Điều này không chỉ gây tổn hại đến quyền và lợi ích các công ty Trung Quốc mà còn làm suy yếu các quy định của WTO”, phát ngôn viên Bộ Thương mại Trung Quốc Cao Phong cho biết tại cuộc họp báo.

“Chúng tôi hy vọng Úc sẽ có những hành động cụ thể để sửa chữa những hành vi sai trái của họ, tránh làm ảnh hưởng hoạt động trao đổi hàng hóa và đưa thương mại trở lại bình thường càng sớm càng tốt”, ông Cao nói thêm.

Đáp lại, Bộ trưởng Thương mại Úc Dan Tehan ngày 24.6 cho biết Canberra rất ngạc nhiên trước động thái của Trung Quốc, RT đưa tin. Ông Tehan cũng nói Úc không nhận được thông báo nào trước khi bị Trung Quốc khiếu nại lên WTO.

“Thông thường, bên bị khiếu nại sẽ nhận được một số thông báo thông qua ủy ban WTO liên quan hoặc các kênh song phương về vấn đề gây tranh cãi trước”, ông Tehan nói.

Động thái của Trung Quốc diễn ra sau khi Úc nộp đơn kiện lên WTO phản đối việc Bắc Kinh áp thuế chống bán phá giá lên rượu vang Úc. Trước đó, Canberra cũng khiếu nại thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp áp lên lúa mạch Úc. Quan hệ giữa Canberra và Bắc Kinh đã trở nên tồi tệ kể từ tháng 4.2020, sau khi Úc kêu gọi mở cuộc điều tra độc lập về nguồn gốc đại dịch Covid-19.

Nguồn: Báo Thanh niên

15/ Xuất khẩu dệt may dự báo khởi sắc hơn trong 6 tháng cuối năm 2021

Xuất khẩu dệt may phục hồi trong dịch COVID-19

Theo Bộ Công Thương, trong gần 6 tháng đầu năm 2021, ngành dệt may đã có nhiều tín hiệu khởi sắc, đặc biệt, trong 5 tháng đầu năm 2021, chỉ số sản xuất ngành dệt tăng 8,1% so với cùng kỳ; ngành sản xuất trang phục tăng 9,1%; ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 12%.

Một số sản phẩm trong ngành đạt mức tăng trưởng khá như: Vải dệt từ sợi tự nhiên ước đạt 261,5 triệu mét, tăng 9,3% so với cùng kỳ; sản xuất vải dệt từ sợi tổng hợp và sợi nhân tạo ước đạt 482,5 triệu mét, tăng 8,8% so với cùng kỳ; quần áo mặc thường ước đạt 1.882,9 triệu cái, tăng 9,7%…

Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt và may mặc ước đạt 12,2 tỉ USD, tăng 15% so với cùng kỳ; kim ngạch xuất khẩu xơ, sợi dệt các loại tăng 60,1%; kim ngạch xuất khẩu vải mành, vải kỹ thuật khác tăng 66,2%.

Là một trong những “cánh chim đầu đàn” của ngành dệt may Việt Nam, Tập đoàn Dệt May Việt Nam – Vinatex đã phục hồi, doanh thu thuần đã đạt khoảng 3.377 tỉ đồng, lợi nhuận gộp tăng 6% so với cùng kỳ năm trước; hiệu quả sản xuất – kinh doanh của công ty mẹ và hầu hết các đơn vị thành viên của Vinatex đã tăng so với cùng kỳ.

Dự báo xuất khẩu dệt may khởi sắc vào cuối năm

Cũng theo Bộ Công Thương, hưởng lợi từ các Hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là Hiệp định EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Châu Âu (EU)- Việt Nam), thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc khi nhiều doanh nghiệp đã có đơn hàng xuất khẩu đến Quý III năm nay.

“Phần lớn doanh nghiệp may trong ngành đã có đơn hàng đến hết quý III/2021, nhiều doanh nghiệp có đơn hàng cho cả năm 2021” – ông Cao Hữu Hiếu – Phó Tổng giám đốc Vinatex, cho biết.

Nhấn mạnh về những “điểm sáng” về xuất khẩu trong những tháng cuối năm, Bộ Công Thương cũng cho rằng, hiện tại, thị trường Mỹ vẫn là đối tác lớn nhất. Bên cạnh đó là thị trường EU do còn nhiều dư địa phát triển.

Nguồn: Báo Lao động

16/ Dù kinh tế bị ảnh hưởng Covid-19, kỳ vọng GDP vẫn trên 6%

Liên quan xuất khẩu lạc quan, vào thời điểm giữa tháng 5/2021, trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu trong các lĩnh vực như dệt may, da giày, gỗ… đều khẳng định tín hiệu thị trường đang tốt lên rất nhiều và đơn hàng họ nhận đều đến quý III/2021. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp còn có thêm cơ hội ở những thị trường mới mà họ chưa từng khai thác. Ông Nguyễn Văn Sơn – Giám đốc Công ty TNHH SX TM&XNK Thiên Minh chia sẻ rằng, trước đây công ty này vốn chỉ khai thác thị trường Đức, nhưng hiện tại nhiều đối tác tại Ba Lan, Phần Lan, Thụy Điển cũng đã bắt đầu làm việc với doanh nghiệp để đặt các đơn hàng trong thời gian tới.

Một điều đáng mừng hơn là nếu như trước đây các doanh nghiệp nhận hầu hết các đơn hàng, thì nay do đơn hàng “dày đặc” họ đã chọn lựa những đơn hàng có giá trị cao và có lợi nhuận hơn. “Chúng tôi thấy do có đơn hàng nhiều nên doanh nghiệp thường lựa đơn hàng có lợi nhuận cao để làm chứ không phải như trước làm bất cứ đơn hàng nào. Đặc biệt, những doanh nghiệp có trình độ quản trị ổn định, làm ra mặt hàng chất lượng cao thì họ lựa được khách hàng tốt hơn”- ông Nguyễn Chánh Phương – Phó chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP. Hồ Chí Minh đánh giá.

Tương tự với dệt may, ông Phạm Văn Việt- Tổng giám đốc Việt Thắng Jean cho biết, doanh nghiệp này đã nhận các đơn hàng đến hết quý III năm nay và khối lượng đơn hàng ghi nhận tăng khoảng 30% so với cùng kỳ.

Cùng với xuất khẩu, theo đánh giá của Ngân hàng UOB Việt Nam, sản xuất công nghiệp trong tháng 5 phản ánh mạnh mẽ hoạt động thương mại, với mức tăng 12,6% so với cùng kỳ, cùng mức tăng trong tháng 4. Bên cạnh đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn tích cực trong năm 2021. Tổng vốn đăng ký FDI tính đến tháng 5 tăng 14 tỷ đô la Mỹ so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo UOB, mặc dù đạt những thành công ban đầu trong việc khống chế đại dịch nhưng làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 4 có thể mang đến những rủi ro đáng kể đến sự phát triển của nền kinh tế trong quý III/2021, vì tỷ lệ tiêm chủng hiện vẫn thấp hơn so với các nước láng giềng.

Ông Phạm Xuân Hồng – Chủ tịch Hội Dệt may Thêu đan TP. Hồ Chí Minh cho hay, lo lắng lớn nhất của các doanh nghiệp hiện nay là có đơn hàng rồi nhưng làm cách nào để có thể hoàn thành đơn hàng giao kịp tiến độ. Do đó, họ đang phải tranh thủ từng ngày, từng giờ còn an toàn để sản xuất thông qua chia nhỏ các ca làm để đảm bảo giãn cách, phòng chống dịch bệnh nhằm giữ cho hoạt động sản xuất không bị gián đoạn.

Nguồn: Báo Công Thương

17/ UAE – Thị trường tiềm năng Việt Nam

Trong những năm gần đây, phát triển kinh tế của UAE đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Theo báo cáo đánh giá Môi trường kinh doanh thuận lợi toàn cầu (Global Doing Business Report) của Ngân hàng Thế giới năm 2020, UAE đứng thứ 16/190 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới và đứng thứ 2 trong các nền kinh tế Ả-rập.

UAE nằm trong trong số ít quốc gia hàng đầu thế giới có chất lượng cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại, đứng thứ ba thế giới về chỉ số ứng dụng công nghệ trong phát triển của Chính phủ. Báo cáo Đầu tư thế giới năm 2020 của Hội nghị Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) cũng chỉ rõ, UAE nằm trong nhóm 20 quốc gia đứng đầu thế giới về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Với đặc điểm phát triển kinh tế, vị trí địa lí thuận lợi và cơ sở hạ tầng đồng bộ hiện đại, UAE được xem là cửa ngõ quan trọng để hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường Trung Đông và châu Phi trong những năm tới. 80% hàng hóa nhập khẩu vào UAE để tái xuất sang nước thứ 3.

Ngoài ra, với việc bình thường hóa quan hệ giữa UAE và một số nước Trung Đông như Qatar, Israel, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường UAE sẽ có thêm nhiều cơ hội để tái xuất hàng hóa sang các thị trường này.

Bên cạnh đó, UAE là quốc gia có yếu tố khí hậu khắc nghiệt, nắng nóng quanh năm cũng như điều kiện thổ nhưỡng chủ yếu là sa mạc, không thích hợp cho việc trồng trọt. Chính vì vậy, để đảm bảo an ninh lương thực cũng như phục vụ nhu cầu của người dân và khách du lịch, UAE phải nhập khẩu rất lớn lương thực và thực phẩm từ khắp nơi trên thế giới.

Số liệu thống kê của UAE cho thấy, kim ngạch thương mại hai chiều với Việt Nam năm 2017 là 10,3 tỷ USD; 8,19 tỷ USD năm 2018; 8,16 tỷ USD năm 2019. Đáng chú ý, hàng năm, Việt Nam thường xuất siêu sang UAE, đưa UAE tiếp tục trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam tại khu vực Trung Đông – châu Phi và là một trong những thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam trên thế giới (tỷ trọng xuất siêu năm 2017 là 9,4 tỷ USD; 7,3 tỷ USD năm 2018; 6,9 tỷ USD năm 2019).

Trong năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, giá trị trao đổi thương mại giữa Việt Nam và UAE chỉ đạt 4,3 tỷ USD. 5 tháng năm 2021, số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy, Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này là 1,917 tỷ USD và nhập khẩu là 188,637 triệu USD. Các mặt hàng xuất khẩu sang UAE chủ yếu là mặt hàng có thế mạnh như: Nông sản, thủy sản, hoa quả tươi, thực phẩm chế biến giá trị cao, vật liệu xây dựng, điện thoại di động, máy móc thiết bị phụ tùng, điện tử gia dụng, dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ…

Tuy nhiên, để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này, theo các chuyên gia, doanh nghiệp Việt Nam cần sử dụng một đại lý hoặc nhà phân phối (ký hợp đồng); mở văn phòng đại diện hoặc chi nhánh; thành lập công ty với một đối tác là công dân UAE; nhượng quyền thương mại đối với sản phẩm thực phẩm, đồ uống, hàng thời trang; sử dụng ngôn ngữ Ả Rập khi đóng gói bao bì sản phẩm và quảng cáo…

Nguồn: Báo Công Thương

18/ Bán hàng online vào EU phải đăng ký thuế giá trị gia tăng

Bất cứ nhà bán hàng online, sàn giao dịch thương mại điện tử nào đều phải đăng ký kinh doanh ở một nước thành viên EU nếu muốn bán hàng trực tuyến vào EU.

Khi tiến hành bán hàng, người bán hoặc sàn giao dịch phải thu thuế GTGT theo mức tại nước của người mua (nghĩa là sàn giao dịch hoặc người bán phải biết thuế GTGT của nước khách hàng bằng cách truy cập vào trang sau để biết thuế GTGT đối với từng nước, từng mặt hàng: https://ec.europa.eu/taxation…/tedb/vatSearchForm.html).

Với quy định mới này, nếu người bán đăng ký trên thủ tục một cửa nhập khẩu (IOSS) của từng nước thành viên, khách hàng sẽ biết giá cuối cùng, đã bao gồm thuế GTGT, không có phí hoặc lệ phí ẩn. Nếu Người bán không đăng ký IOSS, khách mua hàng trực tuyến sẽ thanh toán thuế GTGT khi nhập khẩu hàng hóa vào EU. Các nhà cung ứng dịch vu logistics như bưu điện hoặc người giao hàng có thể tính thêm phí thông quan cho khách hàng để thu khoản thuế GTGT này và hoàn thành các thủ tục cần thiết khi nhập khẩu hàng hóa.

Do vậy, đối với những sàn giao dịch thương mại điện tử hoặc doanh nghiệp thương mại điện tử muốn cung ứng hàng vào EU thì cần phải đăng ký kinh doanh tại một nước thành viên EU và chỉ định một đối tác tại nước EU đó để làm các thủ tục khai báo và nộp thuế GTGT.

Thời gian vừa qua, bưu điện của Bỉ đã thử nghiệm thu phí đối với giao dịch thương mại điện tử ngoài EU trong bối cảnh chưa có nhà kinh doanh nào đăng ký IOSS thì mua hàng trực tuyến từ ngoài EU vào EU đang gặp nhiều khó khăn khi chi phí gia tăng rất nhiều (đối với những món hàng vài chục euro, thuế GTGT tương ứng vài euro, nhưng phí khai thuế  GTGT của bưu điện lại lên đến hơn 10 euro. Nếu tính trên tỷ giá mặt hàng thì rất lớn), và do đó, có nhiều khách hàng từ chối nhận hàng hoặc hoàn trả sản phẩm.

Nguồn: Tạp chí Kinh tế Sài Gòn

19/ Nhật Bản phê chuẩn Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực

Ngày 25/6, Bộ Ngoại giao Nhật Bản thông báo nước này đã phê chuẩn Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) – hiệp định thương mại tự do với sự tham gia của 10 thành viên ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, New Zealand và Australia.

RCEP là hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới hiện nay, khi bao trùm một thị trường khổng lồ, gồm 2,27 tỷ dân với tổng GDP là 26.000 tỷ USD và tổng kim ngạch xuất khẩu là 5.200 tỷ USD.

RCEP sẽ có hiệu lực sau 60 ngày sau khi được 6 trong số 10 nước thành viên ASEAN và 3 nước ngoài ASEAN tham gia Hiệp định trên phê chuẩn.

RCEP sẽ dỡ bỏ thuế quan đối với 91% lượng hàng hóa và ban hành các quy định chung về đầu tư và sở hữu trí tuệ, nhằm thúc đẩy thương mại tự do.

Nguồn: Tạp chí kinh tế Sài Gòn

20/ Gạo Ấn Độ đổ bộ Việt Nam, Bộ Công Thương vào cuộc

Bộ Công Thương vừa ban hành Quyết định về việc thành lập Đoàn kiểm tra tình hình thi hành pháp luật về hoạt động xuất nhập khẩu gạo. Tiến hành làm việc với 5 doanh nghiệp gạo gồm: Công ty Cổ phần Tập đoàn Tân Long; Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thuận Minh; Công ty Cổ phần Tập đoàn Lộc Trời; Công ty Cổ phần Tân Đồng Tiến.

Ông Phan Văn Chinh – Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương được giao trách nhiệm là Trưởng Đoàn. Các thành viên còn lại trong Đoàn gồm đại diện Vụ Pháp chế; Đại diện Hiệp hội Lương thực Việt Nam và Phòng Xuất nhập khẩu hàng nông, lâm, thủy sản (Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương).

Đoàn kiểm tra có nhiệm vụ làm việc với các đơn vị có liên quan về tình hình xuất nhập khẩu gạo hàng hóa phục vụ công tác quản lý, điều hành xuất nhập khẩu gạo theo Nghị định số 107/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 8 năm 2018 của Chính phủ, Nghị định số 69/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương.

Trước đó, ngày 22/6, Cục Xuất nhập khẩu đã có Công văn gửi các Công ty nhập khẩu gạo từ Ấn Độ. Theo đó, để phục vụ công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo chống gian lận xuất xứ, bảo vệ thương hiệu gạo Việt Nam, Cục Xuất nhập khẩu đã yêu cầu các Công ty nhập khẩu gạo từ Ấn Độ phối hợp cung cấp các thông tin về tình hình nhập khẩu, kinh doanh, tiêu thụ, tồn kho gạo Ấn Độ của công ty và gửi Báo cáo về Bộ Công Thương (đầu mối là Cục Xuất nhập khẩu) trước ngày 29 tháng 6 năm 2021.

3 tháng đầu năm nay, Việt Nam đã chi 74,8 triệu USD để mua gạo của Ấn Độ, tăng hơn 554 lần về trị giá so cùng kỳ năm ngoái là 76 tấn gạo với trị giá 135.000 USD, về lượng tăng hơn 3.000 lần so cùng kỳ. Từ năm 2019 trở về trước, trung bình mỗi năm, gạo Ấn Độ sang Việt Nam tầm 500 đến vài nghìn tấn. Tuy nhiên, trong năm đầu tiên đại dịch Covid-19 bùng phát, Việt Nam đã bất ngờ nhập khẩu 46.700 tấn gạo từ thị trường Ấn Độ, tăng hơn 9,5 lần so với năm 2019 và xu hướng tăng này đang tiếp diễn từ đầu năm đếm nay.

Nguồn: Báo Công Thương

21/ Giảm thuế theo RCEP: Cơ hội hay thách thức đối với xuất khẩu của ASEAN?

Được ký kết vào cuối năm 2020, hiệp định sẽ có hiệu lực khi có ít nhất 6 nước ASEAN và 3 nước đối tác hoàn tất thủ tục phê chuẩn trong nước. Theo lộ trình cam kết trong RCEP, lộ trình tự do hóa thuế quan giữa các nước thành viên được thực hiện trong vòng 20 năm. Một trong những công cụ chính sách thương mại quan trọng của thỏa thuận này là xóa bỏ thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu giữa các thành viên.

Sự xói mòn các ưu đãi thương mại của ASEAN xảy ra khi các nước ASEAN phải đối mặt với sự suy giảm lợi thế cạnh tranh mà một số nhà xuất khẩu được hưởng ở thị trường nước ngoài do đối xử thương mại ưu đãi được cung cấp bởi các FTA giữa các thành viên ASEAN và giữa ASEAN với tư cách là một nhóm và các đối tác đối thoại của họ.

Phân tích 5 điểm đến xuất khẩu hàng đầu của 10 nước ASEAN sử dụng dữ liệu xuất khẩu năm 2018 từ Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC) cho thấy, các nước ASEAN sẽ có mức độ thiệt hại xuất khẩu khác nhau do xói mòn ưu đãi. Các quốc gia bị thiệt hại xuất khẩu tương đối lớn bao gồm Brunei Darussalam, Indonesia, Lào, Myanmar, Malaysia, Singapore và Thái Lan, là những quốc gia có một số trong năm thị trường xuất khẩu hàng đầu trong ASEAN hoặc các đối tác đối thoại. Ngược lại, Campuchia, Philippines và Việt Nam có khả năng ít bị thiệt hại hơn về xuất khẩu vì chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ, quốc gia không thuộc RCEP.

Các nhà phân tích xem xét hai kịch bản để chứng minh sự xói mòn ưu tiên làm giảm xuất khẩu của ASEAN như thế nào bằng cách sử dụng các FTA ASEAN – Trung Quốc, ASEAN – Nhật Bản và ASEAN – Hàn Quốc làm ví dụ. Trước khi RCEP hình thành, chỉ có các nước ASEAN được ưu đãi tiếp cận thị trường Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc theo các FTA. Các nhà xuất khẩu từ ASEAN được hưởng mức thuế suất ưu đãi thấp do ba nước này cấp, trong khi các nhà xuất khẩu từ ba nước cũng được hưởng mức thuế suất ưu đãi thấp do các nước ASEAN cấp.

Tóm lại, việc cắt giảm thuế quan theo RCEP có khả năng làm xói mòn các ưu đãi thương mại trong ASEAN vì RCEP xuất hiện trong môi trường có nhiều FTA chồng chéo. Hàm ý chính của việc cắt giảm thuế quan là các doanh nghiệp định hướng xuất khẩu trong ASEAN sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn với các doanh nghiệp nước ngoài trong các đối tác đối thoại để duy trì thị phần.

Tác động bất lợi của việc cắt giảm thuế quan được xem xét ở đây không nhất thiết có nghĩa là ASEAN không còn khả năng hưởng lợi từ RCEP. Nếu RCEP đạt được mục tiêu vượt xa các đợt cắt giảm thuế quan này, thì có thể tổn thất xuất khẩu tiềm ẩn do xói mòn ưu đãi sẽ là tác động ít quan trọng nhất. Giải quyết các vấn đề như hàng rào phi thuế quan, quyền sở hữu trí tuệ và thương mại điện tử, trong số những vấn đề khác, sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh và kích thích sự đổi mới của các doanh nghiệp ASEAN, những lợi ích có thể sẽ lớn hơn thiệt hại về xuất khẩu tiềm năng của việc cắt giảm thuế quan.

Nguồn: Báo Công Thương

22/ Mô hình tích trữ 60 năm qua bị ‘tổn thương’ vì Covid-19

Doanh nghiệp hiện đang thay đổi cách thức tích trữ sản phẩm vốn đã được tối ưu hóa trong hơn 60 năm qua.

Ví dụ điển hình là Toyota. Thay vì đợi linh kiện theo từng đơn hàng như trước, hãng xe này chủ động tích trữ từ sớm những linh kiện quan trọng như bán dẫn. Trong báo cáo tài chính quí 3 (công bố đầu tháng 2), Toyota cho biết sẽ đảm bảo từ 1-4 tháng dự trữ cần thiết đối với mỗi loại linh kiện. Trong năm nay, Toyota dự kiến tăng sản lượng xe bán từ 9,1 triệu đơn vị trong năm ngoái lên con số 9,6.

“Các nhà sản xuất xe hơi khác cũng bắt đầu học hỏi chiến lược của Toyota bằng cách tự đảm bảo nguồn cung của mình”, HSBC nhận định.

Không chỉ ngành ô tô, các nhà sản xuất máy tính lớn cũng bắt đầu tích trữ linh kiện. Ví dụ HP tăng dự trữ bộ xử lý trung tâm (CPU), bộ điều khiển mạng và điều khiển màn hình.

Theo HSBC, các nhà sản xuất hiện đang dịch chuyển từ mô hình “just-in-time” (JIT) sang mô hình “just-in-case” (JIC). Hoạt động sản xuất đã được tối ưu hóa rất nhiều trong vòng 60 năm qua nhờ sự ra đời của mô hình JIT, Toyota đã tiên phong áp dụng mô hình này nhằm giảm dư thừa hàng tồn.

Hãng vận chuyển lớn nhất thế giới Maersk đang chứng kiến xu hướng chuỗi cung ứng dịch chuyển sang mô hình tích trữ khi cần (JIC) diễn ra trong chính hoạt động của họ. Theo CEO của Maersk được HSBC dẫn lại, các khách hàng đang dịch chuyển từ trạng thái phụ thuộc vào một nhà cung cấp đơn lẻ sang nhập hàng từ nhiều nguồn cung khác nhau để tránh ảnh hưởng bị gián đoạn nguồn cung.

Mối lo thương mại tương lai

Có hai lý do quan trọng cho câu chuyện này. Yếu tố đầu tiên là việc tích trữ sản phẩm cũng tăng sự cạnh tranh có thể xảy ra đối với linh kiện và vật liệu thô vốn đang trong tình trạng thiếu hụt nguồn cung, khiến giá cả càng đắt đỏ hơn.

Thứ hai, nhu cầu tích trữ một số mặt hàng tăng mạnh đồng nghĩa với việc tích trữ ở một số ngành nghề khác sẽ giảm mạnh. Bên cạnh đó, việc tích trữ sản phẩm là rất tốn kém đối với doanh nghiệp. Mặt khác, việc tăng hàng tích trữ có thể dẫn đến tổn thất khi doanh nghiệp dự đoán sai nhu cầu thị trường.

 “Tích trữ thêm hàng có thể không phải là chiến lược khả thi đối với doanh nghiệp nhỏ với nguồn vốn hạn hẹp trong bối cảnh đại dịch này. Mặc dù dịch bệnh đã cho thấy sự mong manh của sản xuất tinh gọn, đây vẫn chưa phải “cái kết” của sản xuất theo mô hình JIT”, HSBC đánh giá.

Thay thế cho phương án tăng hàng tích trữ, các doanh nghiệp cũng có thể xem xét phương án đa dạng hóa nhà cung cấp, tìm nguồn cung gần chính quốc (sản xuất cận quốc gia hoặc nội địa), tự sản xuất linh kiện chính (tích hợp dọc) và áp dụng công nghệ số để quản lý nguồn cung tốt hơn.

Tình trạng thiếu hụt linh kiện sản xuất

Công ty tư vấn Alix Partners ước tính tình trạng thiếu bị linh kiện bán dẫn có thể gây thiệt hại 110 tỉ đô la doanh thu cho các hãng sản xuất xe trong năm nay (ước tính trước đây là 61 tỉ).

Tình trạng thiếu hụt trong ngành linh kiện bán dẫn vốn luôn hiện hữu, nay lại càng trầm trọng hơn vì những khó khăn liên quan đến đại dịch Covid-19 và các yếu tố khác. Việc các công ty Trung Quốc tranh thủ tích trữ linh kiện công nghệ trước khi Mỹ áp dụng hạn chế thương mại (trước thời điểm xảy ra đại dịch), thời tiết khắc nghiệt ở Texas, ngập lụt ở Đài Loan, và sự kiện cháy nhà máy sản xuất bộ vi xử lý ở Nhật Bản đã khiến nguồn cung càng bị siết chặt hơn.

Tình hình gián đoạn vận chuyển vẫn còn tiếp diễn ít nhất tới hết năm nay do phong tỏa cảng biển và gián đoạn ở Yantian, một cảng phía Nam Trung Quốc, cuộc cạnh tranh tích trữ sẽ càng khiến tình trạng thiếu hụt của những mặt hàng trọng yếu trở nên trầm trọng hơn trong tương lai gần.

Nguồn: Tạp chí Kinh tế Sài Gòn

Theo nghiên cứu của HSBC, mô hình tích trữ hàng tồn được tinh gọn trong 60 năm qua đang thay đổi, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tiếp tục làm đứt gãy chuỗi cung ứng trên toàn cầu. Ảnh minh họa: Thành Hoa.

23/ Doanh nghiệp cảng đắt khách nhờ hiệp định thương mại tự do

Lũy kế 5 tháng đầu năm năm cho thấy khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển đạt 302.424.000 tấn, không bao gồm hàng quá cảnh không xếp dỡ tại cảng, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2020.

Theo thống kê tháng 6/2021 của Cục Hàng hải Việt Nam, khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển tháng 5 năm đạt 63.939.000 tấn, không bao gồm hàng quá cảnh không xếp dỡ, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2020. Riêng khối lượng hàng hóa container thông qua cảng biển 2,2 triệu TEU, tăng 35% so với năm 2020.

Riêng 3 tháng đầu năm nay, tình hình xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam qua châu Âu (EU) đã tăng lần lượt 18% và 12%.

Hiệp định CTCPP đang thúc đẩy tăng trưởng trong việc xuất khẩu một số mặt hàng Việt Nam có lợi thế như nông thủy sản, điện, điện tử sang các thị trường lớn như Nhật Bản, Canada.

Bên cạnh đó, quan hệ FTA với các nước thành viên CPTPP sẽ giúp Việt Nam cơ cấu lại thị trường xuất khẩu. Đồng thời, Việt Nam cũng đón nhận làn sóng dịch chuyển chuỗi sản xuất từ Trung Quốc của nhiều doanh nghiệp trên thế giới sau bài học dịch COVID-19 gây đứt gãy chuỗi cung ứng.

Thực tế, sản lượng hàng hóa xuất nhập khẩu thông qua cảng biển liên tục tăng trưởng nhờ FTA. Tuy nhiên, giá cước phí vận tải cũng liên tục tăng kỷ lục nên các hãng tàu có xu hướng hợp tác với nhau để cắt giảm chi phí, đi kèm với đó là việc tăng kích thước tàu vận chuyển.

Điều này tạo lợi thế cho các doanh nghiệp cảng biển phía Nam, với nhiều cảng nước sâu, vừa đáp ứng yêu cầu tiếp nhận các tàu trọng tải lớn theo xu thế phát triển của đội tàu quốc tế vừa sử dụng hiệu quả quỹ tài nguyên đường bờ thông qua tối đa lượng hàng hóa.

Trước xu hướng phát triển này, một số doanh nghiệp đã có động thái gia tăng nguồn cung như Công ty cổ phần Gemadept. Doanh nghiệp dự kiến khởi động 2 dự án cảng nước sâu trong quý 3-4/2021 với mục tiêu đưa vào khai thác từ năm 2023.

Dự án Cảng nước sâu Gemalink giai đoạn 2 với diện tích 39 ha, tổng vốn đầu tư 190 triệu USD, công suất 900 nghìn Teus/năm.

Dự án Cảng Nam Đình Vũ, giai đoạn 2 với diện tích 20ha, tổng vốn đầu tư 1.700 tỷ đồng, công suất 500.000 TEU/năm.

Theo Ban lãnh đạo Gemadept, riêng Cảng Gemalink trong năm đầu tiên hoạt động có thể đạt sản lượng hơn 1,2 triệu teus tương đương 80% công suất thiết kế. Giai đoạn 2 của cảng này sẽ nâng tổng công suất đóng góp cho toàn khu vực cụm Cảng Cái Mép-Thị Vải lên 2,4 triệu Teus/năm.

Trước đó, trong quý 1/2021, Cảng nước sâu Gemalink giai đoạn 1 đã chính thức đón chuyến tàu thương mại đầu tiên sau giai đoạn xây dựng.

Gemadept đã ghi nhận hoạt động cảng này vào doanh thu quý này 687,5 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 171,8 tỷ đồng, lần lượt tăng trưởng 14,4% và 40,2% so với cùng kỳ năm 2020.

So với doanh nghiệp cảng biển phía Nam, doanh nghiệp cảng biển phía Bắc gặp khó khăn do nguồn cung cảng nước sâu hạn chế, chủ yếu cạnh tranh ở vị trí thượng nguồn. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng đã có sự chuyển đổi mạnh mẽ để bắt kịp xu hướng dịch chuyển của ngành.

Điển hình như Công ty cổ phần Cảng Hải Phòng đưa vào sử dụng Cảng nước sâu Lạch Huyện từ năm 2019. Doanh nghiệp cũng đang lên kế hoạch chuyển đổi mục đích khu vực Cảng Hoàng Diệu sang thương mại và thay vào đó triển khai đầu tư Cảng nước sâu HIPG từ quý 3/2021.

Quý 1/2021, Cảng Hải Phòng ghi nhận lượng tàu vào cảng cao; trong đó, có tới 585 lượt tàu vào các chi nhánh cảng, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2020, chủ yếu là các tàu container. Sản lượng hàng hóa ngoài container đạt 1,573 triệu tấn, tăng 8,1%; hàng container nội địa đạt 84,48 nghìn TEU, tăng 17,6%; hàng container xuất nhập khẩu đạt 262,28 nghìn TEU, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2020. Nhờ đó, doanh nghiệp báo lãi ròng gần 144 tỷ đồng, tăng 48% so với cùng kỳ năm 2020.

Trên thị trường, cổ phiếu ngành cảng biển đang tăng trưởng tích cực. Đóng cửa phiên 29/6, cổ phiếu GMD tăng 33% so với đầu năm, giao dịch ở mức 44.000 đồng/đơn vị. Cổ phiếu PHP tăng 47,8% so với đầu năm, giao dịch ở mức 28.800 đồng/đơn vị.

Nguồn: VietnamPlus

24/ XK nội thất văn phòng bằng gỗ tiếp tục tăng trưởng

Xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2021 đạt 215,8 triệu USD

Trước làn sóng lây nhiễm Covid-19 lần thứ 4 từ cuối tháng 4/2021, làm đà hồi phục của kinh tế trong nước đã có xu hướng chững lại do giảm tốc trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu. Tuy nhiên, xuất khẩu đồ nội thất văn phòng bằng gỗ của Việt Nam là một ngoại lệ.

Cụ thể, theo số liệu thống kê sơ bộ, tháng 5/2021 kim ngạch xuất khẩu đồ nội thất văn phòng của Việt Nam đạt 46 triệu USD, tăng 95,7% so với tháng 5/2020. Tính chung trong 5 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu đồ nội thất văn phòng đạt 215,8 triệu USD, tăng 72,6% so với cùng kỳ năm 2020. Điều này cho thấy nhu cầu trên thị trường thế giới đã phục hồi mạnh trở lại, sau khi bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 và chậm lại trong năm 2020.

Trong cơ cấu mặt hàng đồ nội thất văn phòng thì mặt hàng bàn và tủ là mặt hàng xuất khẩu chính, chiếm tỷ trọng cao trong 4 tháng đầu năm 2021.Trong đó, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng bàn đạt 78,7 triệu USD, tăng 69,9% so với cùng kỳ năm 2020.

Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng tủ đạt 51,5 triệu USD, tăng 37,2% so với cùng kỳ năm 2020. Đáng chú ý, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng bàn làm việc, ghế, bàn viết và tủ hồ sơ tăng rất mạnh trong 4 tháng đầu năm 2021, trong đó mặt hàng bàn làm việc xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng rất cao, đạt 15,74 triệu USD, tăng 362,6% so với cùng kỳ năm 2020; bàn viết đạt 1,5 triệu USD, tăng 244,9%; tủ hồ sơ đạt 1,2 triệu USD, tăng 160,8%; ghế đạt 2,1 triệu USD, tăng 163,1%.

Ngoài ra, còn một số mặt hàng khác trong cơ cấu mặt hàng đồ nội thất văn phòng xuất khẩu trong 4 tháng đầu năm 2021 như: kệ, kệ sách, bàn học, bàn vi tính…

Về thị trường, kim ngạch xuất khẩu đồ nội thất văn phòng tới thị trường Mỹ chiếm tỷ trọng cao nhất. Đáng chú ý, xuất khẩu đồ nội thất văn phòng tới thị trường Trung Quốc, EU, Australia, New Zealand, Ả rập Xê út, Puerto Rico, Malaysia đạt tốc độ tăng trưởng cao trong 4 tháng đầu năm 2021.

Triển vọng xuất khẩu tiếp tục được dự báo tăng nhanh

Theo CSIL, triển vọng phục hồi đồ nội thất văn phòng của EU sẽ phục hồi trong 2 năm tới. Đại dịch tác động tới nhu cầu tiêu thụ đồ nội thất văn phòng, xu hướng số lượng người làm việc tại nhà càng tăng, do đó nhu cầu đối với các sản phẩm nội thất văn phòng sẽ có sự thay đổi. Ví dụ như, các sản phẩm ghế ngồi văn phòng được thiết kế tốt hơn, dễ sử dụng hơn so với các sản phẩm khác. Bên cạnh đó, việc sử dụng bàn làm việc có thể điều chỉnh độ cao cũng tăng lên. Các sản phẩm bàn/vách ngăn độc lập ngày càng mở rộng.

Đặc biệt, triển vọng xuất khẩu đồ gỗ nội thất văn phòng tới thị trường Hà Lan là rất lớn, bởi Hà Lan là thị trường đồ nội thất lớn thứ 6 ở châu Âu và đây là thị trường có nhu cầu nhập khẩu đồ nội thất văn phòng tăng mạnh trong 5 năm qua. Ngoài ra, Hà Lan còn được coi là cửa ngõ để vào thị trường EU, nơi trung chuyển hàng hóa hàng đầu châu Âu và thế giới.

CSIL dự báo, tiêu thụ đồ nội thất văn phòng trong lĩnh vực thương mại điện tử đang tăng trưởng với tốc độ hai con số. Hiện tại, các nhà sản xuất đồ gỗ nội thất văn phòng đang đầu tư mạnh vào lĩnh vực thương mại điện tử. Đây là xu hướng phát triển tích cực mà các doanh nghiệp xuất khẩu đồ nội thất văn phòng của Việt Nam cần hướng tới.

Nguồn: Báo Công Thương

25/ Bảo vệ thương hiệu gạo Việt trước ‘cơn lốc’ gạo Ấn

Nhiều doanh nghiệp (DN) xuất khẩu gạo cho biết đang phải đối mặt với nhiều khó khăn như giá gạo xuất khẩu giảm mạnh và lượng hàng bán đi khá chậm. Liên tục có nhiều phiên giá gạo bị điều chỉnh giảm đến 5 USD/tấn. Từ nửa tháng qua, gạo Việt xuất khẩu giảm đến 15 USD/tấn.

Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ, thương mại gạo thế giới năm 2021 sẽ gia tăng chủ yếu nhờ Ấn Độ tăng mạnh xuất khẩu gạo do giá cả cạnh tranh, mặc dù nguồn cung ở Ấn Độ giảm.

Trong khi đó, nhập gạo giá rẻ từ Ấn Độ lại gia tăng chóng mặt. Tính từ đầu năm 2020 đến nay, có khoảng 500.000 tấn gạo giá rẻ từ Ấn Độ đã và đang trên đường về Việt Nam. Trong khi, thống kê của Bộ Công thương cho thấy, trước đó, giai đoạn từ năm 2019 trở về trước, xuất khẩu gạo của Ấn Độ sang Việt Nam chỉ đạt mức khiêm tốn từ 500 tấn cho đến vài nghìn tấn.

Được biết, hiện lượng gạo tồn kho đang ở mức khá cao, trong khi mùa vụ thu hoạch lúa của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đang cận kề thì rõ ràng số lượng nhập khẩu gạo quá lớn từ Ấn Độ đang dấy lên nhiều lo ngại đối với gạo Việt.

Trên thực tế, trong thời gian qua, lực lượng hải quan đã phanh phui một loạt các DN nhập gạo Ấn Độ và gắn mác xuất xứ Việt Nam, phá hoại ngành xuất khẩu gạo nước nhà.

Ngăn chặn, không để gạo nhập ảnh hưởng tới uy tín, thương hiệu gạo Việt

Trước gạo Ấn Độ tăng đột biến, Bộ Công thương vừa ban hành Quyết định về việc thành lập đoàn kiểm tra. Sẽ làm việc với 5 doanh nghiệp gạo gồm: Công ty cổ phần Tập đoàn Tân Long; Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Thuận Minh; Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời; Công ty cổ phần Tân Đồng Tiến và Công ty trách nhiệm hữu hạn Khánh Tâm.

Trước đó, ngày 22/6 vừa qua, Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) đã có công văn gửi các công ty nhập khẩu gạo từ Ấn Độ. Cụ thể, yêu cầu các công ty nhập khẩu gạo từ Ấn Độ phối hợp cung cấp các thông tin về tình hình nhập khẩu, kinh doanh, tiêu thụ, tồn kho gạo Ấn Độ của công ty và gửi báo cáo về Bộ Công thương trước ngày 29/6/2021. Đáng chú ý, mới đây, Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh – đơn vị phát hiện nhiều lô gạo Ấn Độ giả mạo xuất xứ.

Ngoài ra, các DN kiến nghị cơ quan chức năng cần đưa mặt hàng gạo nhập từ Ấn Độ vào luồng đỏ, kiểm 100% hàng hóa để phát hiện, xử phạt những công ty giả mạo xuất xứ; giám sát chặt chẽ các trường hợp công ty nhập gạo Ấn Độ về nhưng lại tái xuất với xuất xứ Việt Nam.

Nguồn: Thời báo Tài chính Việt Nam

26/ 60% doanh nghiệp châu Âu muốn mở rộng tại Việt Nam

Khoảng 88% các giám đốc được khảo sát kỳ vọng hoạt động kinh doanh sẽ đi lên trong 12 tháng tới, dựa trên các yếu tố thúc đẩy như thị trường tiêu dùng đang phát triển; các hiệp định thương mại tự do đã được ký kết; và một chuỗi cung ứng đáng tin cậy.

Báo cáo này chỉ ra, Việt Nam là một điểm đến đầu tư nổi tiếng, hấp dẫn với 60% đại diện doanh nghiệp cho biết, họ có kế hoạch mở rộng bán hàng và sản xuất tại đây. Theo sau là Malaysia (53%) và Thái Lan (48%).

Standard Chartered chỉ ra các lĩnh vực tăng trưởng tiềm năng đối với hợp tác EU – ASEAN.

Thứ nhất, ngành sản xuất dược phẩm dự kiến sẽ rất phát triển với thị trường thuốc generic (thị trường thuốc tương đương), đặc biệt là thị trường Indonesia, Việt Nam và Thái Lan. Ví dụ như thị trường dược phẩm ở Việt Nam có quy mô trên 5 tỷ USD với 22.000 loại thuốc. Dự báo của công ty Nghiên cứu thị trường IBM cho thấy, thị trường dược phẩm của Việt Nam sẽ đạt 7,7 tỉ USD trong năm nay và khoảng 16,1 tỉ vào năm 2026. Với nhu cầu dược phẩm lớn tại khu vực này, các công ty châu Âu kỳ vọng sẽ trở thành nhà cung cấp nguyên liệu cho các sản xuất trong khu vực.

Thứ hai, các thương hiệu hàng tiêu dùng nhanh của Châu Âu như Unilever hay Nestle đang đứng vững tại thị trường ASEAN nhờ thu nhập của tầng lớp trung lưu đang tăng lên nhanh chóng và có mức tiêu thụ cao hơn. Trong đó, mảng thực phẩm và đồ uống sẽ là đầu tàu tại các thị trường lớn như Indonesia, Thái Lan và Philippines.

Thứ ba, ngành công nghiệp ô tô tại các quốc gia ASEAN đang chuyển hướng sang tập trung vào sản xuất và xuất khẩu xe điện trong giai đoạn phục hồi sau đại dịch. Đây là điểm hấp dẫn lớn đối với các nhà sản xuất và cung cấp châu Âu khi các quốc gia này đang chuyển dịch sang sử dụng xe điện thay thế cho các loại ô tô truyền thống.

Thứ tư, các doanh nghiệp xây dựng và công trình của châu Âu tìm thấy cơ hội rất lớn đối với thị trường các quốc gia ASEAN, đặc biệt trong lĩnh vực cung cấp giải pháp xa và kỹ thuật số trong bối cảnh các quốc gia ASEAN đang đầu tư khoản tiền lớn để xây dựng các thành phố thông minh, cơ sở hạ tầng giao thông và các dịch vụ hậu cần.

Thứ năm, các quốc gia Đông Nam Á đang thúc đẩy phát triển năng lượng sạch và tái tạo.

Cuối cùng, Standard Chartered nhấn mạnh, thương mại điện tử ở ASEAN đã “sẵn sàng trở thành một trong những lĩnh vực phát triển nhanh nhất, với đà bền vững ngay cả trong kịch bản hậu Covid-19”.

Tuy nhiên, báo cáo này cũng chỉ ra rằng, 75% người được hỏi cho rằng các quy định, phương thức thanh toán và cơ sở hạ tầng khu vực là một rào cản trung hạn đáng lưu tâm.

Trong khi đó, 65% đại diện doanh nghiệp cho rằng việc thay đổi mô hình kinh doanh nhằm thích ứng với tình hình khu vực là một thách thức. 58% người được khảo sát lại băn khoăn trong việc điều chỉnh vấn đề cung ứng và logistics.

27/ Singapore sẽ ký FTA với Liên minh Thái Bình Dương vào cuối 2021

Ngày 29/6, Quốc vụ khanh phụ trách thương mại và công nghiệp Singapore Alvin Tan cho biết, nước này sẽ ký kết Hiệp định thương mại tự do (FTA) với khối thương mại Liên minh Thái Bình Dương (PA) vào cuối năm nay, sau khi hoàn tất đàm phán vào tháng 12/2020.

Theo ông Alvin Tan, FTA giữa Singapore và PA sẽ cho phép các doanh nghiệp hai phía được tiếp cận các thị trường và thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực như thương mại điện tử, hải quan, tạo thuận lợi thương mại và dịch vụ hàng hải.

Năm 2019, tổng giá trị trao đổi thương mại hàng hóa của Singapore với PA đạt 6,1 tỷ SGD (4,5 tỷ USD), chiếm hơn 33% tổng kim ngạch thương mại hàng hóa của Singapore với các nước khu vực Mỹ Latinh.

Trong khi đó, kim ngạch thương mại trong lĩnh vực dịch vụ năm 2018 đạt 2,6 tỷ USD, chiếm 28,2% tổng kim ngạch thương mại dịch vụ của Singapore với khu vực này.

Nguồn: VietnamPlus

28/ Hàng Việt vào EU qua thương mại điện tử vẫn chịu hàng rào thuế

Miễn thuế nhập khẩu dưới 150 euro

Theo quy định mới của EU, từ ngày 1/7/2021, tất cả hàng hóa được đưa vào EU có nguồn gốc giao hàng từ nước thứ ba đều chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT) và phải khai báo hải quan.

Theo Vụ Thị trường châu Âu, châu Mỹ, Trung Quốc sẽ là quốc gia bị ảnh hưởng đầu tiên khi quy định này có hiệu lực vì lượng giao dịch xuyên biên giới trên trang web bán hàng của Trung Quốc nhắm đến thị trường EU tăng nhanh trong những năm gần đây, sau đó đến Hoa Kỳ.

Theo quy định của EU, các giao dịch mua bán hàng hóa trên nền tảng TMĐT giữa Việt Nam và EU sắp tới dù vẫn phải trả thuế GTGT, nhưng cũng sẽ được miễn thuế nhập khẩu nếu lô hàng giá trị dưới 150 euro.

Cần tiếp cận bài bản

Tuy nhiên, để phát triển bán hàng online hoặc qua sàn giao dịch TMĐT tới người tiêu dùng EU, theo Vụ Thị trường châu Âu, châu Mỹ, doanh nghiệp Việt Nam cần đăng ký kinh doanh ở một nước EU và nên khai báo các giao dịch theo trang web IOSS (Import One-Stop Shop – tạm dịch là thủ tục nhập khẩu một cửa) của từng nước thành viên. Nếu nhà cung ứng TMĐT không có trụ sở tại một nước EU thì cần phải chỉ định một đại diện đăng ký tại EU để thực hiện các thủ tục và nghĩa vụ thuế GTGT.

Như vậy nếu một sàn giao dịch điện tử nào của Việt Nam có chiến lược cung ứng dịch vụ đến EU đều phải tìm một đối tác đại diện tại EU để thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT của mình.

Thuế GTGT cho doanh số B2C được nhập khẩu vào EU sẽ được nộp qua tờ khai thuế hàng tháng ở nước thành viên EU được chỉ định, sau đó tờ khai và tiền Thuế GTGT sẽ được chuyển tới các cơ quan thuế tại quốc gia nơi nhận hàng ở EU. Do đó, các doanh nghiệp sẽ không còn phải đăng ký thuế GTGT ở mọi quốc gia EU nơi họ bán hàng.

Nếu sàn giao dịch không thực hiện đăng ký IOSS, các nhà cung ứng dịch vụ logistics như bưu điện, chuyển phát của EU sẽ thu thuế và phí với dịch vụ mua hàng trực tuyến. Thuế và phí gồm: thuế GTGT và phí cho thủ tục khai thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu. Cho nên bán hàng trực tuyến từ ngoài EU vào EU sẽ gặp nhiều khó khăn khi chi phí gia tăng khá nhiều.

Dự báo năm 2022, doanh số TMĐT xuyên biên giới của 16 nước lớn nhất EU sẽ đạt 220 tỷ euro, tức là tăng gấp đôi so với doanh số năm 2019 (108 tỷ euro), trong đó thị trường Đức tăng 43% đạt 27 tỷ euro, Pháp tăng 34% đạt 20 tỷ euro, Tây Ban Nha tăng 30% đạt 10 tỷ euro, Hà Lan tăng 26% đạt 4,4 tỷ euro. Tại châu Âu, thị trường Anh là nước ngoài EU có mức tăng trưởng lớn nhất tăng tới 38% đạt 33 tỷ euro.

Nguồn: Báo Công Thương

BSA Tổng hợp