Một tuần sau khi Bộ Công an công bố triệt phá đường dây sản xuất, buôn bán, tiêu thụ sữa bột giả với gần 600 loại sữa, nhiều người dân rất bức xúc và đang tìm cách trả lại các sản phẩm sữa giả đã mua.
Chị Huyền (Bắc Ninh) cho biết các đại lý và cửa hàng phân phối sữa giả phải có trách nhiệm bồi thường. “Đại lý, cửa hàng phân phối khi nào mới bồi thường cho dân. Bản thân tôi đã mua gần 100 hộp trong bốn năm qua, hiện còn 25 hộp chưa dùng. Nhưng khi mang ra đại lý đòi trả thì không được vì chờ cơ quan chức năng thu hồi”, chị Huyền nói.
Không chỉ được bán ở các đại lý, những ngày qua một số bệnh viện thông tin loại sữa của các công ty này đã được cung ứng tại bệnh viện. Trong đó Bệnh viện Trung ương quân đội 108 và Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Kạn đã có thông tin dừng tư vấn, bán loại sữa do công ty nằm trong đường dây sản xuất sữa giả cung ứng.
Đã một tuần trôi qua, Bộ Công Thương nói “không thuộc đối tượng quản lý”, còn Bộ Y tế cho rằng “đã giao phần lớn về địa phương quản lý”. Địa phương – Chi cục An toàn thực phẩm Hòa Bình – nơi bốn công ty trong “hệ sinh thái” sản xuất sữa giả công bố 305 loại sữa giả nói “không thể hậu kiểm vì không có sản phẩm trên địa bàn”.
Mục tiêu của Washington khi tiếp tục siết chặt lệnh cấm xuất khẩu chip sang Trung Quốc không chỉ dừng lại ở việc kiềm chế tham vọng dẫn đầu trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) của Bắc Kinh, mà còn là chấp nhận đánh đổi lợi ích của chính các tập đoàn Mỹ để duy trì thế thượng phong.
Được xem là một trong những nạn nhân lớn nhất của cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung, Tập đoàn công nghệ Nvidia hôm 16-4 cho biết họ có thể chịu khoản lỗ lên đến 5,5 tỉ USD trong báo cáo tài chính quý 1, sau khi chính quyền Washington áp đặt các biện pháp hạn chế mới đối với xuất khẩu chip AI sang Trung Quốc – một trong những thị trường quan trọng nhất của hãng.
Đối với Trung Quốc, bài toán còn phức tạp hơn khi quốc gia này vẫn phụ thuộc nhiều vào công nghệ phương Tây. Trong ngắn hạn, việc Bắc Kinh miễn thuế nhập khẩu chip từ Đài Loan có thể là cách để kéo dài thời gian chuẩn bị, duy trì dòng chảy công nghệ phục vụ các lĩnh vực chiến lược như AI, điện toán đám mây và quốc phòng.
Còn Mỹ, nếu tiếp tục siết chặt lệnh cấm, các công ty như Nvidia có thể mất đi một trong những thị trường tăng trưởng lớn nhất. Nhưng nếu nới lỏng kiểm soát, nguy cơ công nghệ rơi vào tay đối thủ địa chính trị là điều không thể xem nhẹ.
Thế giằng co này biến chip bán dẫn trở thành một trong những nút thắt phức tạp nhất trong quan hệ Mỹ – Trung hiện nay, nơi mà mỗi quyết định chính sách đều kéo theo những hệ quả toàn cầu.
Các “ông lớn” công nghệ Trung Quốc rót hàng tỷ USD để hỗ trợ tiêu thụ hàng xuất khẩu trong nước
Hàng loạt tập đoàn công nghệ Trung Quốc như Alibaba, JD.com, Pinduoduo và Tencent đang triển khai các chương trình hỗ trợ quy mô lớn nhằm giúp các doanh nghiệp xuất khẩu chuyển hướng phục vụ thị trường trong nước.
Tờ Financial Times nhận định động thái của các ông lớn Trung Quốc là nhằm bảo vệ nền kinh tế Trung Quốc trong bối cảnh cuộc chiến thương mại ngày càng căng thẳng với Mỹ.
Theo đó, hai “đầu tàu” thương mại điện tử của Alibaba là Taobao và Tmall cam kết tăng tỷ lệ hoa hồng cho người bán và cải thiện khả năng hiển thị sản phẩm, với mục tiêu hỗ trợ ít nhất 10.000 doanh nghiệp chủ yếu xuất khẩu quay lại thị trường nội địa. Bên cạnh đó, chuỗi siêu thị Freshippo của Alibaba cũng thiết lập các “kênh xanh” – danh mục ưu tiên cho hàng xuất khẩu.
Pinduoduo mới đây cũng đã lên tiếng trấn an các nhà bán hàng trên nền tảng quốc tế Temu. Để hỗ trợ các đối tác vượt qua giai đoạn chuyển đổi, công ty cam kết rót 100 tỷ Nhân dân tệ (khoảng 13,7 tỷ USD) vào các chương trình giúp doanh nghiệp “xoay trục và nâng cấp” mô hình kinh doanh.
JD.com, một trong những nền tảng bán lẻ trực tuyến lớn nhất nước này, vừa công bố thành lập quỹ trị giá 200 tỷ Nhân dân tệ để thu mua sản phẩm từ các doanh nghiệp xuất khẩu trong vòng 12 tháng tới.
Trong khi đó, Baidu, “gã khổng lồ” tìm kiếm, cho biết sẽ cho phép một triệu doanh nghiệp quảng bá sản phẩm trong các buổi livestream với sự hỗ trợ của “người dẫn ảo” được tạo bởi AI, hoàn toàn miễn phí.
Thị trường snack màu mỡ của Đông Nam Á thu hút nhà đầu tư ‘xuống tiền’
Làn sóng ‘snack hóa’ đang lan rộng khắp Đông Nam Á, khi người dân dần thay thế những bữa ăn chính bằng những món ăn vặt vừa ngon miệng, vừa tiện lợi mà vẫn đầy đủ dinh dưỡng. Điều này giúp các nhà đầu tư tự tin đặt cược lớn vào thị trường snack của khu vực.
Trong năm 2024, Đông Nam Á ghi nhận một số thương vụ đình đàm trong lĩnh vực tiêu dùng, chẳng hạn như thương vụ công ty đầu tư vốn cổ phần tư nhân Affinity Equity Partners mua lại Yupi Indo Jelly Gum, nhà sản xuất kẹo dẻo hình thú của Indonesia với giá 1,2 tỉ đô la Mỹ.
Thương vụ đầu tư khủng trị giá 1 tỉ đô la Mỹ của quỹ đầu tư chính phủ Singapore vào nhà sản xuất snack hàng đầu của Ấn Độ, Haldiram’s cũng nói lên tất cả: snack giờ không chỉ là món ăn vội vàng, mà đã trở thành một “tài sản” đáng để rót vốn.
Với hơn 700 triệu dân, có độ tuổi trung bình chỉ 31, Đông Nam Á là mảnh đất màu mỡ cho tiêu dùng nhanh. Thị trường snack khu vực trị giá 49 tỉ đô la, đang tăng trưởng chóng mặt với tốc độ 7,4% mỗi năm, bỏ xa mức trung bình toàn cầu. Indonesia và Philippines dẫn đầu cuộc chơi, với quy mô thị trường snack dự kiến đạt lần lượt 6,4 tỉ đô la và 3,4 tỉ đô la vào năm 2028.
Các sản phẩm snack “tốt cho sức khỏe” cũng lên ngôi, đặc biệt với người tiêu dùng trẻ, những người yêu thích snack không sử dụng thực phẩm biến đổi gen, dầu cọ và ít đường.
Trong nỗ lực đưa sản xuất trở lại Mỹ, Nike và nhiều hãng giày lớn đã đầu tư mạnh vào tự động hóa. Tuy nhiên, hành trình thay thế lao động châu Á bằng máy móc cho thấy công nghệ vẫn chưa thể vượt qua sự khéo léo của bàn tay con người.
Nỗ lực nhiều năm của Nike nhằm chuyển một phần sản xuất từ Trung Quốc, Indonesia và Việt Nam sang Bắc Mỹ phản ánh khó khăn khi các thương hiệu Mỹ muốn rời xa các đối tác gia công giá rẻ ở châu Á.
Đây là những nơi vốn dựa vào đội ngũ công nhân lớn để sản xuất hàng loạt sản phẩm cho người tiêu dùng Mỹ. Từ năm 2015, Nike đã chi hàng triệu USD vào dự án đầy tham vọng nhằm tự động hóa một phần ngành sản xuất giày – lĩnh vực vốn phụ thuộc nặng vào nhân công. Khi đó, chi phí lao động tăng tại Trung Quốc và tiến bộ công nghệ như in 3D mở ra khả năng sản xuất giày với ít công nhân hơn.
Nếu thành công, mô hình này có thể nhân rộng tại Mỹ. Không chỉ Nike, nhiều hãng khác cũng tìm cách phá bỏ mô hình nhà máy khổng lồ tại châu Á – nơi công nhân giá rẻ và lành nghề khâu vải, dán đế giày thủ công.
Tuy nhiên, dự án nhanh chóng gặp trục trặc. Robot không xử lý tốt các chất liệu mềm, co giãn – yếu tố đặc trưng của giày thể thao. Chất liệu giày thay đổi theo nhiệt độ và không có 2 phần đế nào giống hệt nhau.
Một vấn đề lớn khác là sự đa dạng trong thiết kế của Nike. Suốt nhiều thập kỷ, các thương hiệu Mỹ cho phép đội ngũ thiết kế sáng tạo tự do và tin tưởng các nhà máy châu Á sẽ biến ý tưởng thành hiện thực. Khác với ôtô hay iPhone, mẫu mã giày thay đổi liên tục. Trong khi đó, sản xuất bằng robot đòi hỏi thiết kế đơn giản, để máy móc có thể lặp lại quy trình hàng triệu lần. Sản xuất điện tử sử dụng chất liệu cứng, tiêu chuẩn hóa – điều mà ngành giày không có.
Đề xuất định danh người bán online để chặn hàng giả
Ngày 22-4, tại tọa đàm “Kết nối VNeID an toàn, tiện lợi”, bà Lê Thị Hà (Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Bộ Công Thương) khẳng định định danh điện tử người bán rất cần thiết trước tình trạng hàng giả, kém chất lượng.
Mạng xã hội hiện là một kênh bán hàng phổ biến, song chưa được kiểm soát chặt. Gần đây, sau phản ánh về lô sữa giả, Cục đã yêu cầu các nền tảng gỡ hàng ngàn sản phẩm vi phạm, bao gồm thực phẩm chức năng, sữa giả, thuốc kê đơn bán lẻ không phép.
Tuy nhiên, việc xử lý vẫn gặp khó do thiếu công cụ truy vết người bán. Bà Hà nhấn mạnh cần định danh để tạo “niềm tin số”, giúp truy xuất, xử lý vi phạm dễ hơn. Người bán dù trên môi trường ảo cũng không thể “ẩn danh”..
“Bộ Công Thương kỳ vọng sử dụng VNeID sẽ là giải pháp quản lý số hiệu quả, tăng tính minh bạch và kiểm soát chặt chẽ hoạt động thương mại điện tử”- bà Hà nói.
Một số chợ dân sinh của TP.HCM thành siêu thị, chợ Bến Thành, Bình Tây sẽ phát triển mạnh du lịch
Ông Nguyễn Nguyên Phương, phó giám đốc Sở Công Thương TP.HCM, cho biết TP hiện có 232 chợ truyền thống. Từ sau dịch COVID-19, hoạt động kinh doanh tại các chợ gặp nhiều khó khăn do phải cạnh tranh gay gắt với siêu thị, trung tâm thương mại và đặc biệt là chuỗi cửa hàng tiện lợi.
Trước thực trạng đó, TP đang nghiên cứu các giải pháp toàn diện để đổi mới mô hình chợ, nâng cao chất lượng dịch vụ và thu hút đầu tư từ xã hội.
Bà Trần Như Quỳnh – phó trưởng phòng quản lý thương mại (Sở Công Thương TP.HCM) – cho biết: “Một số chợ dân sinh hoạt động không hiệu quả có thể được chuyển đổi thành siêu thị, siêu thị kết hợp với chợ, hoặc có thể chuyển đổi thành chợ phiên, chợ bán các sản phẩm đặc thù, chuyên biệt…”.
Ngoài ra, theo bà Quỳnh, sẽ xem xét đề xuất thêm chính sách hỗ trợ, ưu đãi thuế, phí, vay vốn… cho tiểu thương để vượt qua giai đoạn khó khăn. Tăng tập huấn, hỗ trợ áp dụng công nghệ thông tin để dần hình thành chợ online.
Nhiều ý kiến cũng nhấn mạnh vai trò của chính quyền trong việc hỗ trợ tài chính, quảng bá hình ảnh chợ. Các chợ nổi tiếng như Bến Thành, Bình Tây, An Đông… cần được bảo tồn như một phần di sản văn hóa, gắn với phát triển du lịch và thương mại của TP.
Thương hiệu đua nhau đổ bộ lên vũ trụ: Space Marketing có đang trở thành xu hướng mới của ngành quảng cáo?
Từ những tấm billboard chen chúc trên đường phố cho đến chiến dịch kỹ thuật số ngập tràn trên mạng xã hội, ngành quảng cáo dường như chưa bao giờ ngừng tìm kiếm một “vùng đất mới” để thu hút sự chú ý. Và giờ đây, các thương hiệu đang hướng tầm nhìn vượt khỏi tầng khí quyển – lên thẳng quỹ đạo Trái đất. Không gian, vốn được xem là lãnh địa của các phi hành gia, đang dần trở thành sân khấu cho các chiến dịch tiếp thị mang tầm biểu tượng.
Tất cả bắt đầu với lon Pepsi xuất hiện ngoài trạm vũ trụ Mir vào năm 1996, và gần đây nhất là chiếc bánh quy OREO lần đầu tiên được đưa vào không gian trong chiến dịch hợp tác với Sent Into Space vào 11/4 vừa rồi – các thương hiệu ngày càng táo bạo hơn trong việc tiếp cận người tiêu dùng theo đúng nghĩa… ngoài hành tinh. Các công ty như StartRocket còn mơ xa hơn: tạo nên biển quảng cáo phát sáng trên bầu trời đêm bằng vệ tinh cỡ nhỏ.
Hiện tại đã có hơn 50 công ty tiến hành nghiên cứu và phát triển thương mại trên trạm vũ trụ như một phần của nỗ lực nhằm mở rộng phạm vi hoạt động thương mại ngoài không gian, có thể kể đến như Axiom Space đang thực hiện các sứ mệnh thương mại lên ISS và xây dựng trạm vũ trụ thương mại đầu tiên trên thế giới; Blue Origin và Sierra Space hợp tác phát triển trạm vũ trụ thương mại Orbital Reef, dự kiến hoạt động trong thập kỷ này; Voyager Space và Airbus hợp tác xây dựng trạm vũ trụ Starlab, nhằm cung cấp không gian nghiên cứu thương mại sau khi ISS ngừng hoạt động.
Cuộc đua nhân lực AI toàn cầu: 10 quốc gia có mật độ nhân sự AI cao nhất
Các phân tích từ khảo sát của McKinsey cho thấy các tổ chức đang bắt đầu thay đổi căn bản cách thức làm việc khi triển khai AI. Cụ thể, 21% người được khảo sát cho biết tổ chức của họ đã tái thiết kế một cách căn bản ít nhất một phần quy trình làm việc khi áp dụng AI tạo sinh.
Đặc biệt, theo báo cáo năm 2024 của Microsoft và LinkedIn, khảo sát trên 31.000 người tại 31 quốc gia, 66% lãnh đạo doanh nghiệp cho biết họ sẽ không tuyển dụng ai nếu người đó không có kỹ năng AI, trong khi 71% sẵn sàng chọn ứng viên ít kinh nghiệm nhưng biết AI, hơn là người nhiều kinh nghiệm mà không có năng lực công nghệ này.
Để giúp theo dõi nguồn cung lao động AI toàn cầu, LinkedIn đã công bố chỉ số “mật độ tài năng AI”, dựa trên hồ sơ người dùng có kỹ năng AI (bao gồm cả kỹ thuật như học máy, xử lý ngôn ngữ tự nhiên và kiến thức ứng dụng như ChatGPT, GitHub Copilot).
Danh sách 10 quốc gia có tỷ lệ nhân lực AI cao nhất so với trung bình toàn cầu năm 2024 bao gồm Israel dẫn đầu với tỷ lệ 1,98%; Singapore (1,64%); Luxembourg (1,44%); Estonia (1,17%); Thụy Sĩ (1,16%); Phần Lan (1,13%); Ireland (1,11%); Đức (1,09%); Hà Lan (1,07%); Hàn Quốc (1,06%).
Mặc dù hầu hết các quốc gia dẫn đầu như Israel, Singapore, Luxembourg hay Estonia đều có quy mô dân số và diện tích nhỏ, họ lại “vượt hạng” khi nói đến năng lực AI. Theo bà Chua Pei Ying, chuyên gia kinh tế trưởng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của LinkedIn, những nước này đã xây dựng hệ sinh thái phát triển tài năng hiệu quả, khi doanh nghiệp chú trọng đào tạo và chính phủ hỗ trợ chính sách học tập liên tục.
Vingroup dự định sản xuất người máy “made in Vietnam”
Trong báo cáo thường niên 2024 vừa công bố, Vingroup cho biết sẽ đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực công nghệ và công nghiệp trong năm 2025, đặc biệt chú trọng phát triển các thế hệ người máy đa năng mang thương hiệu “Made in Vietnam”.
Vingroup đã thành lập hai công ty con là VinRobotics và VinMotion, với tổng vốn điều lệ 2.000 tỷ đồng, mỗi công ty 1.000 tỷ. Hai pháp nhân này hoạt động song song, nhưng đảm nhiệm các vai trò khác nhau trong hệ sinh thái robot mà tập đoàn đang hình thành.
Theo công bố chính thức, Vingroup định hướng song song giữa việc xây dựng nền tảng công nghệ dài hạn và phát triển sản phẩm cụ thể có tính ứng dụng cao. Việc thành lập VinMotion và VinRobotics thể hiện bước đi bài bản nhằm chủ động trong cả khâu nghiên cứu lẫn triển khai, không phụ thuộc vào đối tác công nghệ bên ngoài.
Quốc gia đầu tiên trên thế giới dùng AI để viết luật
Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) đang có kế hoạch sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để xây dựng các bộ luật mới, cũng như đánh giá và sửa đổi các bộ luật hiện hành. Đây là một trong những kế hoạch nhằm tận dụng công nghệ AI mà quốc gia vùng Vịnh này đã đầu tư hàng tỷ USD để phát triển.
Theo mô tả của truyền thông UAE, kế hoạch này là “lập pháp do AI hỗ trợ” và chưa từng có ở nơi nào trên thế giới. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, các chính phủ cũng đang cố gắng ứng dụng AI một cách hiệu quả, từ việc tóm tắt các dự luật cho tới cải thiện các dịch vụ công. Tuy nhiên, chưa nơi nào chủ động sử dụng AI để đưa ra đề xuất thay đổi các luật hiện hành. Chính phủ nước này kỳ vọng AI sẽ đẩy nhanh 70% quá trình lập pháp.
Tuần trước, nội các UAE đã thông qua việc thành lập một bộ phận mới là Văn phòng Trí tuệ Pháp lý, để giám sát công tác làm luật sử dụng AI.
Google đang bị Bộ Tư pháp Mỹ cáo buộc độc quyền mảng công cụ tìm kiếm trên Internet và cung cấp quảng cáo có liên quan đến người dùng.
Thậm chí, các công tố viên còn lo ngại thế độc quyền trên sẽ lan sang lĩnh vực AI, khi ưu thế thông tin của Google có thể giúp công ty này phát triển các sản phẩm trí tuệ nhân tạo (AI) của mình. Bản thân các sản phẩm này sẽ dẫn người dùng về lại công cụ tìm kiếm Google, tạo nên một vòng lặp “nhốt” người dùng trong một hệ sinh thái kín.
Giám đốc sản phẩm ChatGPT của Công ty OpenAI, ông Nick Turley xuất hiện tại phiên tòa chống lại Google trong vai trò nhân chứng “nạn nhân” của hành vi chống độc quyền của công ty trên. Ông cho biết công ty của ông, cũng như các bên khác, quan tâm đến việc mua lại Chrome. Hiện nay, người dùng có thể cài đặt tiện ích mở rộng ChatGPT trên Chrome. Nếu ChatGPT tích hợp sâu hơn vào Chrome, nó sẽ mang lại trải nghiệm “bất khả chiến bại” cho người dùng.
Các đề xuất khắc phục mà Bộ Tư pháp đưa ra bao gồm: buộc Google bán Chrome, cấp phép dữ liệu tìm kiếm cho đối thủ, tạm dừng các hợp đồng độc quyền mua “chỗ đẹp” trên ứng dụng, thiết bị. Google phản đối, cho rằng đề xuất sẽ làm ảnh hưởng đến người tiêu dùng vì làm cho chất lượng các sản phẩm Google kém hơn, cũng như gây tổn hại đến vị thế dẫn đầu công nghệ của Mỹ.
LG, Samsung kiện Ấn Độ vì chính sách định giá chất thải điện tử mới
Hãng tin Reuters đưa tin hai tập đoàn công nghệ hàng đầu Hàn Quốc LG và Samsung đã đệ đơn kiện Chính phủ Ấn Độ, yêu cầu hủy bỏ chính sách phí mới đối với tái chế chất thải điện tử.
Ấn Độ hiện là quốc gia thải ra lượng rác điện tử lớn thứ ba thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Mỹ. Tuy nhiên, theo số liệu của Chính phủ Ấn Độ, chỉ khoảng 43% lượng chất thải điện tử trong năm qua được tái chế và phần lớn hoạt động tái chế vẫn do các cơ sở nhỏ lẻ, không chính thức đảm nhận.
Nhằm thúc đẩy việc tái chế theo hướng chuyên nghiệp và bền vững, chính phủ Ấn Độ đã đưa ra quy định mới, buộc các hãng sản xuất thiết bị điện tử phải trả ít nhất 22 rupee (tương đương 25 cent Mỹ) cho mỗi kg rác điện tử được tái chế. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp cho rằng mức giá này quá cao, khiến chi phí tái chế tăng gần gấp ba lần hiện tại, tạo thêm gánh nặng tài chính.
Samsung và LG là hai trong số nhiều công ty phản đối chính sách này, bên cạnh các doanh nghiệp như Daikin, Havells và Voltas (thuộc Tập đoàn Tata). Theo họ, việc áp đặt mức giá sàn như vậy không những không mang lại hiệu quả về mặt môi trường mà còn kìm hãm đầu tư vào lĩnh vực tái chế.
Sầu riêng Trung Quốc trong cuộc đua cạnh tranh với Đông Nam Á
Trong 2 năm qua, sự xuất hiện nhỏ giọt của sầu riêng trồng trong nước trên các kệ hàng Trung Quốc đã kích hoạt một “cơn sốt vàng” trong ngành nông nghiệp nhiệt đới. Các nhà đầu tư đã đổ xô về Hải Nam và các tỉnh biên giới phía Nam như Vân Nam, Quảng Tây, biến những ngọn đồi bậc thang thành trang trại sầu riêng trải dài tít tắp.
Trung Quốc – quốc gia tiêu thụ hơn 85% lượng sầu riêng toàn cầu mỗi năm – đang từng bước chuyển mình từ nước nhập khẩu thuần túy sang quốc gia trồng loại quả này. Xu hướng này được gọi vui là “ngoại giao sầu riêng”, gắn liền với việc Bắc Kinh mở cửa thị trường trái cây cho nhiều quốc gia Đông Nam Á, vừa để thỏa mãn nhu cầu khổng lồ trong nước, vừa củng cố quan hệ khu vực.
Tuy nhiên, ông Du Baizhong – Tổng giám đốc của Công ty nông nghiệp Youqi, đơn vị sở hữu hơn 200.000 cây sầu riêng tại Hải Nam – chia sẻ tham vọng sầu riêng nội địa thay thế hoàn toàn hàng nhập khẩu là điều xa vời và chiến lược duy nhất là tập trung vào trồng sầu riêng chất lượng cao.
Tại Hải Nam, sầu riêng được để chín tự nhiên trên cây, sau đó vận chuyển bằng đường hàng không đến tay người tiêu dùng trong vòng 48 tiếng – đảm bảo hương vị tươi ngon nhất, giữ được kết cấu đều, vị béo thơm và mang hương thơm tự nhiên.
Khởi công đô thị du lịch lấn biển Cần Giờ: Vingroup muốn tạo ‘kỳ quan đô thị chưa từng có’
Khu đô thị du lịch biển Cần Giờ diện tích 2.870 ha, quy mô dân số gần 230.000 người được Tập đoàn Vingroup khởi công sáng 19/4.
Khu đô thị du lịch lấn biển Cần Giờ nằm ở xã Long Hòa và thị trấn Cần Thạnh, huyện Cần Giờ gồm 4 phân khu. Dự án có mục tiêu hình thành khu đô thị du lịch biển, nghỉ dưỡng, đô thị thông minh, dịch vụ công nghệ cao, nhà ở và khách sạn có khả năng đón 8-9 triệu lượt du khách mỗi năm. Phạm vi lấn biển của dự án có diện tích 1.357 ha, diện tích khu vực san nền là 906 ha với cao độ trên 2,9 m (so với cao độ Hòn Dấu).
Khu đô thị du lịch lấn biển Cần Giờ được định hướng phát triển theo định hướng ESG (xanh sinh thái toàn diện) với mục tiêu sử dụng năng lượng tái tạo từ điện gió ngoài khơi, giao thông xanh, metro kết nối sẽ đi trên cao… Chủ đầu tư kỳ vọng dự án hoàn thành sẽ là “lá phổi thứ hai” của TP HCM bên cạnh rừng ngập mặn.
Quá trình chuẩn bị triển khai dự án, hơn 1.000 người dân đã được các bên lấy ý kiến bao gồm người dân ở tại chỗ, người đánh bắt ven bờ, giữ rừng. Chủ đầu tư cho biết đã có phương án đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm mới cho người dân. Các cam kết về thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường của chủ đầu tư được giám sát độc lập và báo cáo định kỳ.