Thời gian 13g30-15g30 ngày 17.12.2021. Tại Hội trường Thống nhất TP.HCM
Chủ trì: TS Nguyễn Quân, nguyên UVTW Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ KH-CN, Chủ tịch Hội tự động hóa
Thành phần diễn giả:
1/ TS Phan Thanh Bình, nguyên UV BCH TW Đảng, nguyên UV UBTV Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá – Giáo dục – Thanh Thiếu niên và Nhi đồng
2/ Doanh nhân Nguyễn Lâm Viên, Chủ tịch Công ty Vinamit
3/ Doanh nhân Tiêu Yến Trinh, Tổng Giám đốc Công ty Talentnet
4/ PGS.TS Đàm Sao Mai, Phó Hiệu trưởng ĐH Công nghiệp TP.HCM
5/ Ths Huỳnh Phước Nghĩa, Phó Trưởng khoa Kinh doanh quốc tế – Marketing, ĐH kinh tế.
Điều phối: PGS.TS Lê Anh Tuấn, Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu (DRAGON) – ĐH Cần Thơ
Thư ký: Nhà báo Hoàng Tuyên 
PGS.TS Lê Anh Tuấn gợi mở: ĐBSCL thời điểm 1/4/2019 có 17,3 triệu dân, là nơi có tỷ lệ nhập cư thấp nhất nhưng xuất cư cao nhất. Giai đoạn 2009-2019, tỷ lệ tăng dân số toàn vùng là 0%, so với tỷ lệ cả nước 1,14%. Hai năm qua dân số cả vùng Đồng bằng (ĐB) giảm 0,3%.
Biến động lao động do di cư ảnh hưởng tại chỗ (nội vùng), giảm dần vai trò kinh tế vùng do những nguyên nhân sau:
+ Tại chỗ: Thiếu nhân công nông nghiệp nghiêm trọng
+ Giá nhân công (350-450 ngàn đồng/ngày công, quá cao nhưng không đủ người làm)
+ Phụ nữ đi làm xa, nhiều công việc không ổn định và không phù hợp.
+ Nhiều ngôi làng ở ĐB thường được gọi làng Đài Loan hay Hàn Quốc, do có nhiều người là vợ người Đài Loan/Hàn Quốc không mang lại nguồn lực kinh tế.
+ Nhiều nhà máy thiếu lao động và thực trạng đó khiến các nhà đầu tư không hăng hái.
Theo Ban kinh tế TW, do thiên tai, dịch bệnh, năm 2020, nền kinh tế VN chịu thiệt hại khoảng 160.000 tỷ đồng, năm 2021 khoảng  346.000 tỷ đồng. Chỉ hai năm qua, tổng thiệt hại kinh tế khoảng 507.000 tỷ đồng, nếu tính giá hiện hành lên tới 847.000 tỷ đồng, tương đương 37 tỷ USD.
Tháng 10/2021, có ít nhất 1,3 triệu người miền Tây đi lao động ở TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Long An về quê. Thăm dò sau đó cho thấy, chỉ có khoảng 40% lao động muốn trở lại TP và các tỉnh miền Đông Nam Bộ làm việc sau đó.
-Khi Covid vẫn là nổi ám ảnh, biến động di cư ảnh hưởng (liên vùng) thì  các khu công nghiệp trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam vẫn  thiếu hụt lao động, gây ra là nguy cơ lớn cho nỗ lực phục hồi sản xuất, kinh doanh.
Như vậy, từ các góc nhìn: Nhìn từ Biến đổi khí hậu, Nhìn từ hệ sinh thái phát triển doanh nghiệp và công ăn việc làm và từ Biến động do đại dịch, xin nêu vấn đế với các diễn giả của cuộc thảo luận.
TS Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng KH-CN: Đây là chủ đề các địa phương ở ĐBSCL đặc biệt quan tâm. ĐBSCL là vựa lúa, vựa thủy sản, vựa trái cây của cả nước, đóng góp cho nền kinh tế, nhưng ĐBSCL lại đang chịu thiệt thòi nhiều nhất, cả về đầu tư, cả về nguồn nhân lực.
Lãnh đạo Bộ nông nghiệp đang xây dựng chiến lược cho nông nghiệp năm 2030-2045, có xác định nông nghiệp là trụ cột. Việc này cũng còn đang tranh cãi. Tuy nhiên, dù có là trụ cột hay không thì nông nghiệp vẫn hết sức quan trọng.
Hiện nay nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao đẳng, đại học, sau đại học ở Tây Nam Bộ rất thấp, thấp hơn cả Tây Bắc và Tây Nguyên. Bản thân tôi cũng ngạc nhiên về thực trạng này. Với thực trạng này, việc công nghiệp hóa sẽ rất khó khăn. Chưa kể làn sóng di cư của ĐBSCL ra các khu vực khác như Đông Nam Bộ và kể cả Đà Nẵng nữa.
Việc thiếu lao động trẻ, lao động có trình độ cao là rất phổ biến. Bài toán đặt ra là làm sao đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao cho ĐBSCL, không chỉ cho ngành nông nghiệp.
Chúng tôi cũng được biết Chính phủ đang cố gắng đầu tư cho 13 tỉnh thành ĐBSCL, cả về hạ tầng lẫn nguồn nhân lực.
Tôi hi vọng những người chọn ở lại quê hương sau đợt tháo chạy do Covid-19 vừa rồi (60%), có những người được đào tạo, dù không cao lắm, nhưng cũng có những tỷ lệ nhất định, có thể ở lại để xây dựng quê hương, góp phần cho sự phát triển công nghiệp của quê hương.
PGS TS Phan Thanh Bình: ĐBSCL chiềm 13% diện tích, gần 20% dân số, đóng góp phần lớn lúa gạo, hải sản, cây ăn trái… Trong đó, lúa gạo xuất khẩu ĐBSCL chiếm đến 90%, thủy hải sản chiếm đến 60-70%.
Vì sao thế giới, vì sao Nhật Bản rất quan tâm đến ĐBSCL vì họ biết đây là nguồn cung cấp lương thực quan trọng không chỉ cho nước ta mà cả châu Á và thế giới.
Người ĐBSCL vẫn là người Việt Nam, nhưng rất đặc thù do giao thoa văn hóa, dân cư. Đây là những người rất năng động và sáng tạo. Họ đi vào cái mới rất hay và rất nhanh. Bà con ta có thể học không cao, nhưng thấy cái mới là nhảy vào làm và học được liền. Đây là những người rất thực tế. Vì thế, nói ĐBSCL đi kiếm một anh tiến sĩ là không dễ, nhưng làm thì phải hiểu cách của họ là hiệu quả, ra chất lượng, ra thực chất.
Đây là cái chúng ta phải hiểu ĐBSCL, phải hiểu con người ĐBSCL mới có thể giải quyết được vấn đề của ĐBSCL. Do đó con người ở đây có đặc điểm rất riêng khi nói về ĐBSCL.
Thậm chí, tốc độ phát triển kinh tế của ĐBSCL luôn có mức nhỉnh hơn so với cả nước.
Chúng ta có nhiều quy hoạch, bộ nào cũng có nhưng, hình như các quy hoạch đang đi theo các hướng khác nhau.
20 năm trở lại đây có nhiều thành quả. Giáo dục bây giờ người dân cũng quan tâm nhiều hơn. Bây giờ thấy trường lớp ở ĐBSCL tốt, đời sống của người dân tăng lên. Các trục đường lớn đang dần hình thành. Bộ mặt của các thành phố, thị xã của ĐBSCL có thay đổi nhiều.
Đứng về mặt đào tạo, 13 tỉnh ĐBSCL tỉnh nào cũng có trường đại học hoặc phân hiệu các trường đại học, hoặc như Cần Thơ có đến 7 trường. Viện nghiên cứu cũng khá nhiều.
Đối với tôi như vậy tức là cũng có thành quả, nhưng còn nhiều vấn đề đặt ra. Ở đây tôi thấy có hai điểm:
Thứ nhất, trình độ học vấn chung, trình độ đào tạo chung còn thấp. Thuộc loại thấp dưới trung bình cả nước. Mặc dù, nói dân ĐB cần thực chất, nhưng thực chất thì phải có cái gì để thể hiện cái thực chất đó. Đó là cái trình độ, cái nền. Nếu nói hội nhập, nói đến công nghệ thì nền tảng này hết sức quan trọng.
Thứ hai, không đáp ứng được nhu cầu phát triển của ĐBSCL, trước hết là nông nghiệp. Trình đủ thấp và không đủ sức để đáp ứng. Chưa kể người trẻ còn rời địa phương để đi lên các thành phố lớn. Và như thế không đáp ứng được yêu cầu để phát triển hết tiềm năng của ĐBSCL. Bên cạnh đó là thu nhập của bà con còn thấp, thấp hơn trung bình cả nước. Trung bình là dưới 3.000 USD/năm. Vì thu nhập thấp, dòng người ra đi.
Về góc độ kinh tế: Ta thấy rõ ràng làm giàu bằng nông nghiệp là không dễ. Chúng ta nói an ninh lương thực, nhưng an ninh lương thực dừng lại ở năng suất, diện tích bao nhiêu là vừa. Từ đó đặt ra vấn đề là công nghiệp phát triển như thế nào? Công nghiệp đi vào nông nghiệp như thế nào?
Chúng ta cũng chưa nghĩ đến kinh tế biển của ĐBSCL. Chúng ta có cả bán đảo Cà Mau, vậy ĐBSCL đâu chỉ có lúa, hải sản, cây ăn trái, chúng ta có kinh tế biển nữa chứ?
Về góc độ biến đổi khí hậu: Người ta nói ĐBSCL là sông nước, nhưng ĐBSCL giờ thiếu nước. Bến Tre đang dần biến thành vùng nước lợ, giờ chúng ta phải xem xét lại. Tiếp đến là sạt lở. Hàng trăm điểm sạt lở nghiêm trọng ở An Giang, Đồng Tháp, rồi mũi Cà Mau nữa – sạt lở cả ở biển Tây và mũi Cà Mau, đều là những vấn đề phải nhìn nhận, phân tích, đánh giá.
Đó là hai vấn đề lớn, nếu không định hướng đúng và giải quyết những vấn đề kinh tế và biến đổi khí hậu thì chúng ta không thể nào giải quyết được vấn đề nguồn nhân lực.
Qua các nghiên cứu thực tế tôi đề xuất mấy vấn đề như sau:
+ Đầu tiên, đó là chiến lược, quy hoạch và quản trị vùng. Tôi nhấn mạnh là chiến lược cho cả vùng chứ không phải cho riêng một tỉnh, thành nào cả. Chính sách nguồn nhân lực phải là chiến lược cho cả vùng. Vấn đề quy hoạch vùng và quản trị vùng phải bài bản từ ngay chỗ này. Bộ KH-ĐT cần phải nhìn lại xem quy hoạch và chiến lược chung cho ĐBSCL cho cả vùng và quản trị cả vùng luôn. Hiện nay, Hội đồng điều phối vùng đang có cơ chế hoạt động như thế nào?
Giáo dục ở ĐBSCL: Cứ đến vụ mùa học sinh bỏ học rất nhiều. Vậy bây giờ ta học theo cả nước hay theo mùa vụ của riêng ĐBSCL. Đây cũng là lúc chúng ta phải tính đến chỗ này. Không thể dạy ở ĐBSCL như dạy ở TP.HCM được. Đào tạo phải gắn với yêu cầu phát triển của địa phương. Đào tạo chuyên gia phải từ ĐBSCL, cần những người sống tại chỗ. Càng ngày càng hiếm đi các chuyên gia được đào tạo tại chỗ, trong khi yêu cầu phải có chất xám bám sát thực tiễn của ĐB.
Vai trò trung tâm kinh tế dẫn dắt cho ĐB: Trước hết là TP.HCM và sau đó là Cần Thơ. TP.HCM hiện đang sử dụng nhân lực, vật chất của ĐB nhưng thể hiện trách nhiệm với ĐB như thế nào? TP.HCM phải có chiến lược rõ ràng. Thứ nhất phải chuyển giao kiến thức; thứ hai phải chuyển dần những ngành gia công đơn giản về ĐB.
Bà Tiêu Yến Trinh, Tổng Giám đốc Công ty Talentnet: Đồng tình với anh Phan Thanh Bình về quan điểm kinh tế phải dẫn dắt. Nghĩa là định vị Mekong kết nối 13 tỉnh thành là một. Từ đó kết nối chung, phục vụ nguồn nhân lực đầu vào, đầu ra kết nối doanh nghiệp.
Ở góc độ nhân sự, có ba chiến lược với nguồn nhân lực:
Thứ nhất, thu hút nhân tài, “săn đầu người” (Head Hunter); Thứ hai là đào tạo nguồn nhân lực; Thứ ba là mượn chuyên gia từ các địa phương thậm chí cả nước khác.
Về thu hút nhân tài: Tôi sẵn sàng ngồi với lãnh đạo 13 tỉnh để bàn về chiến lược này. Đầu tiên phải đặt câu hỏi là làm sao để thu hút người tài về Mekong.
Thứ nhất, phải tạo câu chuyện để họ tự hào. Mình tạo câu chuyện, trao quyền, trao dự án cho họ, họ về ngay, như thế phải có dự án trọng điểm.
Thứ hai, lấy ví dụ từ Trung Quốc thu hút người tài bằng cách xây dựng cơ sở đất đai, nhà ở, giáo dục, an sinh xã hội, đủ quy hoạch để thu hút người tài về. Có thể kết nối với các tập đoàn về giáo dục vào chiến lược này. Cuối cùng mới đến lương bổng, phúc lợi.
Mặt khác, trong 13 tỉnh, xem ngành nào là trọng điểm sau đó chọn lọc các doanh nghiệp trọng điểm. Chẳng hạn Top 20 DN, giúp họ nâng tầm quản trị, nâng tầm công nghệ để họ thành những mũi nhọn phát triển.
Về đào tạo: Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với DN. Trước khi đào tạo cần phải hỏi nhu cầu DN. Để DN đặt hàng, nhưng quan trọng phải hiểu vậy, trong DN có trường học, trong trường học có DN. Tức là năm thứ nhất là vừa học vừa hành, chứ không phải học xong rồi mới hành.
Về chiến lược mượn chuyên gia: Giờ có những nguồn lực, đặc biệt là về công nghệ có chuyên môn cao, không thể đào tạo hay thu hút về ngay được thì dùng chiến lược mượn nhân tài ở các địa phương khác, thậm chí cả nước ngoài.
Nói tóm lại, phải đi từ nhu cầu kinh tế. Đào tạo hay đào tạo lại nguồn nhân lực phải đáp ứng nhu cầu  phải đi ra từ nhu cầu thực sự của nền kinh tế. Phải tìm các DN 1.000 tỷ trong 13 tỉnh thành – có bao nhiêu? Tìm ra họ, xác định họ là các DN trọng điểm để tìm hiểu nhu cầu nguồn nhân lực và chiến lược, tầm nhìn tương lai của họ ra sao? Từ đó giải bài toán nguồn nhân lực cho họ, ở đây chính là giải bài toán nguồn nhân lực cho họ.
 Tôi rất tâm huyết với Mekong Connect, nếu làm gì giúp các tỉnh ĐBSCL nâng tầm 500 DN ở Mekong tôi sẽ làm hết sức.
Ông Nguyễn Lâm Viên – Chủ tịch Công ty Vinamit: Nếu ĐB cứ đi theo cách cũ thì chúng ta sẽ thụt lùi. Phải làm sao thay đổi?. Phải hướng theo hướng mới, phải đi theo công nghệ sinh học. Phải tạo ra tinh thần đổi mới từ đội ngũ kỹ sư, nông học mới. Chúng ta nghĩ rằng Trung Quốc cần sản lượng, nhưng như thế là sai. Họ cần chất lượng.
Chúng ta làm ra sản phẩm chất lượng thì chúng ta tự tin. Ngược lại, nếu chúng ta cứ tiếp tục canh tác theo lối hóa học thì chúng ta sẽ thất bại. Bây giờ chúng ta dựa vào đội ngũ kỹ sư trẻ, tìm các giải pháp sinh học cho vấn đề nông nghiệp. Nếu chúng ta định hướng rõ như vậy thì các sinh viên sẽ đi theo và chúng ta có thể đạt những tiêu chuẩn mang tính bền vững cao hơn. Và chúng ta không sợ không có thị trường.
Chúng ta nên đào tạo nguồn nhân lực từ bây giờ theo định hướng rõ ràng như vậy, tôi tin rằng chúng ta sẽ có một tương lai khác.
PGS TS Đàm Sao Mai – Phó Hiệu trưởng ĐH Công nghiệp TP.HCM: Nhiều học trò của tôi học xong, không muốn về quê. Vì nước chảy chỗ trũng, thu nhập ở TP cao hơn. Thành ra nghĩ về nguồn nhân lực thì phải nghĩ về vấn đề đó. Đó là lương bổng.
Tôi cũng dạy cho nhiều bạn khởi nghiệp ở các tỉnh. Có nhiều bạn muốn đưa sản phẩm của tỉnh mình ra thị trường, nhưng rất khó vì chưa được đào tạo bài bản.
Như vậy, mình phải làm sao để thu hút người trẻ học ở TP về quê và vừa phải làm sao có những đào tạo cơ bản cho những bạn khởi nghiệp ở địa phương.
Ở các tỉnh thuê mướn nhân sự không đơn giản. Lớn nhất là tiền không có vì chi phí rất lớn.
Chúng ta có thể tính đến chương trình chuyên gia tình nguyện, chi phí thấp, nhưng lại đặt ra vấn đề là có người ở địa phương để tiếp nhận và triển khai ra ngoài không.
Nông dân mình giỏi, nhưng cũng có sự bảo thủ. Không đơn giản là người ta tin.
Hiện nay mỗi tỉnh đều có trung tâm Innovation, làm sao tạo đột phá. Phải hành động.
Phải nâng tầm sản phẩm truyền thống lên, cần ứng dụng KHCN, đây nên là đầu mối kết nối. Các DN nhỏ đi theo học, trong khi các DN lớn đã vững rồi thì chia sẻ. Vấn đề quan trọng là thị trường muốn gì chứ không phải mình có gì?
Ths. Huỳnh Phước Nghĩa, Phó trưởng khoa Kinh doanh quốc tế – Marketing – ĐH kinh tế: Khi chúng tôi hoạch định phát triển phân hiệu Vĩnh Long của UEH, chúng tôi căn cứ vào ba nền tảng:
Thứ nhất tư duy lại doanh nhân nông dân;
Thứ hai là các khoảng trống đào tạo, đào tạo tại chỗ;
Thứ ba là xem xét lại phát triển mối quan hệ giữa DN và nhà trường, dạy mà không xài được là không được.
 Phân hiệu Vĩnh Long có năm nhóm ngành:
1 – Công nghệ sinh học;
2 – Năng lực công nghệ cao, công nghệ tự động và áp dụng công nghệ;
3 – Đào tạo khởi nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, tinh thần doanh chủ;
4 –  Kinh doanh quốc tế;
5 – Logistics và chuỗi cung ứng.
Nguồn nhân lực Mekong dựa trên các nền tảng và các nhóm ngành mà chúng tôi nghiên cứu cũng có thể làm một gợi ý đáng để bàn. Hiện phân hiệu Vĩnh Long cố gắng làm sao để kết nối DN và nhà trường, để nhân lực đào tạo ra đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp.
Bây giờ phải có chiến lược nguồn nhân lực làm sao để an tâm cho người dân ĐBSCL.
Tôi tin, Mekong không thiếu nguồn nhân lực, quan trọng là cách chúng ta làm như thế nào!
Ông Văn Hữu Huệ, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Vĩnh Long: Tôi là người con của ĐB. Tôi có bảy ý kiến và sau đó rút ra một vấn đề:
Thứ nhất, có thể vài trăm năm nữa ĐBSCL sẽ thành biển. Vì sao, vì đất lún sụt, nước biển dâng, công trình thì lại cứ xây lên.
Thứ hai, ý thức hệ của dân ĐB. Ngày xưa có mảnh vườn, miếng ruộng là sống được thành ra tính liên kết rất dở. Tính liên kết không có. 
Thứ ba, Nghị định 98, chưa triển khai được. Phân bón tăng giá cao, hàng làm ra không bán được, không xuất khẩu được nên DN không đầu tư vào nông nghiệp.
Thứ tư, hạ tầng cơ sở, các tỉnh phía Bắc có đường không, đường sắt, đường bộ. ĐBSCL, đường bộ cũng không xong.
Thứ năm, an ninh lương thực. Không có chuyển đổi sản xuất. Trồng lúa bán giá thấp trong khi trồng cây khác, nuôi con khác không cho làm.
Thứ sáu, VietGap, GlobalGap chi phí cao, chứng nhận thời gian quá ngắn, làm mấy năm sau hết hạn. Làm GAP đem ra chợ bán không được giá so với hàng khác.
Thứ bảy, về học đại học. Tôi có đứa cháu học đại học xong ở Sài Gòn làm. Hỏi sao không về? Nó nói ở Sài Gòn được 10 triệu. Về tỉnh, vô công ty nhà nước làm được 4 triệu. Chưa kể có em học đại học xong giấu bằng đi làm công nhân.
Từ 7 ý trên tôi kính đề nghị: Trung ương các cấp có cơ chế đặc thù cho ĐBSCL.
Ông Trần Thái Nghiêm, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Cần Thơ: Định vị để phát triển nguồn nhân lực, trước hết cần có quan điểm rõ ràng. Mình xây dựng chính sách để phát triển cộng đồng 17,3 triệu dân, hay để trọng trách để ĐBSCL nuôi cả nước.
Nếu vấn đề là phát triển cộng đồng 17,3 triệu dân thì nên phát huy lợi thế của ĐB. Nếu nói lợi thế là trồng lúa thì xin thưa, trồng lúa có nghĩa là muôn đời nghèo.
Kỹ năng sản xuất, kỹ năng trồng trọt, chăn nuôi của người dân ĐBSCL rất tốt. Nhưng hiện nay nông nghiệp có ba biến: biến đổi khí hậu, biến đổi thị trường, xu thế tiêu dùng, nên chiến lược đào tạo cần phải có thay đổi để phù hợp với ba biến này.