Kim ngạch thương mại Việt Nam - châu Mỹ đã đạt được bước tiến vượt bậc trong thời gian qua.

1/ EU thừa đường mía | Giá Cotton biến động nhẹ | Trung Quốc sẽ mua 26 triệu tấn bắp ngô của Mỹ

  • New York, ngày 18 tháng 5 (theo Reuters), sản lượng đường tại liên minh Châu Âu (EU) được kỳ vọng sẽ đạt 14.7 triệu tấn, tăng thêm 800.000 tấn. Điều này sẽ dẫn đến hạn chế nhập khẩu đường vào EU, có khả năng giảm nhu cầu khoảng 1.45 triệu tấn.

  • Vào ngày 18 tháng 5, Hợp đồng thì tương lai của bông Cotton tăng nhẹ 1.45-1.8% lên 83,77 xu mỗi pound (lb). Đồng bạc xanh Đô La vẫn trên đà giảm, và thị trường tập trung vào dự báo thời tiết có thuận lợi dẫn đến sản lượng bông Cotton cân đối với nhu cầu thực tế của thị trường. Hiện tại số lượng trồng thêm bông Cotton của năm nay giảm khoản 2-4 điểm % so với cùng kỳ các năm về trước (chu kỳ 5 năm).

  • Cơ quan nông nghiệp của Hoa Kỳ (Mỹ) xác nhận đã bán 1,36 triệu tấn ngô cho Trung Quốc và dự kiến giao vào 2021-2022. Lô đầu tiên sẽ bắt đầu giao vào 1 tháng 9. Cùng ngày, Trung Quốc cũng đã đặt hàng ít nhất 8,2 triệu tấn ngô của Hoa Kỳ cho giai đoạn 2021-2022. Cơ quan USDA (Mỹ) cũng đã dự báo cuối tuần rồi, rằng Trung Quốc sẽ nhập 26 triêu tấn ngô, nhưng không xác định thời điểm.

Nguồn: Reuters

2/ Ấn Độ bắt tay EU kiếm chế ảnh hưởng của Trung Quốc

Ấn Độ và Liên minh châu Âu (EU) đồng ý khôi phục đàm phán thỏa thuận thương mại tự do song phương ngay sau những bất đồng với đối tác thương mại lớn nhất là Trung Quốc. Theo số liệu từ Ủy ban châu Âu, EU là đối tác thương mại lớn thứ ba của Ấn Độ sau Trung Quốc và Mỹ, đạt khối lượng giao dịch hàng hóa và dịch vụ 96 tỉ euro trong năm 2020.

Ấn Độ và EU cuối tuần qua tổ chức hội nghị thượng đỉnh trực tuyến với sự tham gia lần đầu tiên của cả thủ tướng Ấn Độ cùng toàn bộ lãnh đạo của 27 thành viên EU. Hai bên đã đồng ý khôi phục quá trình đàm phán Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương, vốn đóng băng từ 2013 vì một số bất đồng, theo Reuters. Đồng thời, Ấn Độ và EU cũng cam kết tăng cường hợp tác chống biến đổi khí hậu, đối thoại thêm để hợp tác về năng lượng tái tạo, công nghệ lưu trữ năng lượng và hiện đại hóa lưới điện. Chỉ vài ngày trước khi hội nghị diễn ra, EU tuyên bố hoãn phê chuẩn hiệp định đầu tư với Trung Quốc sau màn ăn miếng trả miếng cấm vận với Bắc Kinh về vấn đề nhân quyền ở Tân Cương.

Khi mối quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc leo thang căng thẳng sau những vụ xung đột ở biên giới hồi năm ngoái. Chính việc này được cho là đã khiến New Delhi thay đổi cách nhìn với Bắc Kinh và tìm kiếm các đối tác thay thế. Mặt khác, do nền kinh tế Ấn Độ bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ đại dịch Covid-19, nước này kỳ vọng việc đàm phán FTA với EU sẽ giúp khôi phục lòng tin của người dân Đồng thời, bắt tay với Ấn Độ là cách để EU đa dạng hóa đối tác tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, để không phải phụ thuộc quá nhiều vào một nước cụ thể và đồng thời gia tăng sức ảnh hưởng tại khu vực.

Trong tuyên bố chung sau hội nghị, Ấn Độ và EU nêu rằng: “Chúng tôi nhất trí rằng, với tư cách là hai nền dân chủ lớn nhất thế giới, EU và Ấn Độ có lợi ích chung trong việc đảm bảo an ninh, thịnh vượng và phát triển bền vững trong một thế giới đa cực”. Theo một nghiên cứu của Nghị viện châu Âu năm 2020, lợi ích từ thỏa thuận thương mại giữa EU và Ấn Độ lên đến 8,5 tỉ euro, tuy nghiên cứu này được ước tính trước khi Anh rời khỏi khối.

Nguồn: Báo Thanh Niên

3/ Triển vọng hợp tác giữa Việt Nam – Mỹ – Châu Mỹ

Theo Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ (Bộ Công Thương), kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia châu Mỹ đạt tăng trưởng mạnh mẽ giai đoạn 2011-2019. Trong đó, năm 2014 và 2019 có mức tăng trưởng vượt bậc với 24,17% và 23,63%. Điều này mở ra triển vọng hợp tác thương mại hai bên trong những năm tới.

Hiệu ứng từ hội nhập quốc tế

Vụ thị trường châu Âu – châu Mỹ nhận định, kết quả này có được là nhờ, giai đoạn 2011-2020, các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đã tạo thuận lợi cho mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, công nghiệp và thương mại của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới, trong đó các quốc gia châu Mỹ.

Tại khu vực châu Mỹ, có thể kể tới những thỏa thuận thương mại nổi bật như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), FTA Việt Nam – Chile và Hiệp định Thương mại Việt Nam – Cuba. Trong mỗi FTA được ký kết, Chính phủ đều chỉ đạo ban hành kế hoạch hành động và các văn bản pháp luật để tối ưu hóa hiệu quả của các thỏa thuận này.

Hoa Kỳ là đối tác quan trọng

Trong khu vực châu Mỹ, Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 80% tổng kim ngạch thương mại toàn khu vực và có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm qua. Cụ thể, giai đoạn 2011-2019, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có những bước phát triển rõ rệt. Theo đó, giá trị xuất nhập khẩu tăng 234,7%, bình quân 26,08%/năm. Xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong giai đoạn này tăng 233,8%, bình quân 25,98%/năm; nhập khẩu tăng 238,2%, bình quân 26,5%.

Đặc biệt, kể từ khi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) được ký kết vào năm 2000, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã thay đổi đáng kể. Trước kia, xuất khẩu chủ yếu là nhóm hàng dệt may, da giày. Nhưng giai đoạn 2011-2020, nhiều nhóm hàng đã nổi lên chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại song phương như: Nông-lâm-thủy sản và nhóm các mặt hàng công nghệ điện tử kỹ thuật cao như: Máy vi tính, điện thoại, linh kiện điển tử, máy móc phục tùng.

Bên cạnh Hoa Kỳ, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Canada cũng đã phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn 2011-2020, trở thành đối tác toàn diện năm 2017 và là đối tác thương mại tự do theo hiệp định CPTPP năm 2018-2019. Điều đó đã thúc đẩy thương mại song phương Việt Nam – Canada tăng gấp 3,7 lần, từ 1,3 tỷ USD vào năm 2011 lên gần 4,8 tỷ USD năm 2019. Việt Nam là 1 trong 10 đối tác thương mại lớn nhất của Canada, đứng thứ 4 trong số các nước châu Á và thứ nhất trong khu vực ASEAN.

Trong lĩnh vực khai khoáng và năng lượng, một số dự án hợp tác công nghiệp nổi bật giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong giai đoạn 2011-2020 là: Chuỗi dự án khí – điện Sơn Mỹ có sự tham gia của Tập đoàn AES (Hoa Kỳ); Hợp tác với Tập đoàn Alaska trong lĩnh vực khí hóa lỏng LNG; Hợp tác với ExxonMobil và Tập đoàn Murphy Oil khai thác dầu khí hay hợp tác trong lĩnh vực điện lực và năng lượng tái tạo như: Dự án Nhà máy nhiệt điện Mông Dương 2…

Nguồn: Báo Công Thương

4/ Việt Nam thuộc top đầu ASEAN về môi trường đầu tư

Việt Nam là quốc gia nằm trong Top đầu của khu vực ASEAN được doanh nghiệp (DN) Nhật Bản lựa chọn đầu tư trong thời gian tới. Đó là khẳng định của ông Nakajima Takeo – Trưởng đại diện Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại Hà Nội – khi đánh giá về môi trường kinh doanh tại Việt Nam.

Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh

Theo ông Nakajima Takeo, những năm qua đầu tư của các DN Nhật Bản vào Việt Nam gia tăng nhanh chóng, hiện số lượng DN thành viên của JETRO tại Việt Nam đã lên đến 2.000 DN, trong khi đó những năm 1990 chỉ có 100 DN.

Số liệu mới nhất của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cũng cho thấy, 4 tháng đầu năm, các DN Nhật Bản đã đầu tư vào Việt Nam 2,5 tỷ USD vốn FDI, chiếm 20,5% tổng vốn đầu tư FDI vào Việt Nam trong 4 tháng. Với kết quả này, Nhật Bản cũng là quốc gia đứng thứ 2 về đầu tư vào Việt Nam trong 4 tháng đầu năm sau Singapore. Trong đó, dự án điển hình của Nhật Bản vào Việt Nam trong những tháng đầu năm là Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II, có tổng vốn đầu tư trên 1,32 tỷ USD.

Lũy kế đến tháng 4/2021, các nhà đầu tư Nhật Bản đã đầu tư 4.690 dự án tại Việt Nam, với tổng vốn đăng ký 62,911 tỷ USD, và là quốc gia đầu tư lớn thứ 2 tại Việt Nam sau Hàn Quốc. Đáng chú ý, trong số hơn 4.690 dự án của nhà đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam, có rất nhiều dự án của những thương hiệu toàn cầu như: Toyota, Honda, Canon…

Đang có sự dịch chuyển dòng vốn

Theo ông Nakajima Takeo, xu hướng đầu tư của DN Nhật Bản tại Việt Nam thời gian tới đang có sự dịch chuyển về các địa phương thay vì chỉ tập trung tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.

Trong đó, một trong những địa phương nhận được sự quan tâm lớn của nhà đầu tư Nhật Bản là tỉnh Vĩnh Phúc. Cụ thể, để sẵn sàng cho sự dịch chuyển về địa phương, Tập đoàn Sumitomo (Nhật Bản) đã đầu tư Khu công nghiệp (KCN) Thăng Long – Vĩnh Phúc, đây dự báo sẽ là điểm đến của các DN Nhật Bản khi đầu tư tại địa phương này.

Bên cạnh dịch chuyển về các địa phương, ông Shinji Hirai – Trưởng đại diện JETRO TP. Hồ Chí Minh – cho biết: Các DN Nhật Bản còn đang có sự dịch chuyển từ khu vực sản xuất sang khu vực dịch vụ. Cụ thể, nếu trước đây có 40% DN Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam để mở nhà máy, xưởng sản xuất thì gần đây số DN đầu tư vào Việt Nam với mục đích trên chỉ còn khoảng 20%.

Lý do của sự dịch chuyển này theo JETRO có rất nhiều, trong đó quy mô dân số của Việt Nam dự báo đạt 106 triệu dân vào năm 2050, tầng lớp trung lưu ngày càng gia tăng, khiến thị trường Việt Nam được đánh giá là “miền đất hứa” cho các DN trong lĩnh vực bán lẻ. Cùng với đó, Việt Nam cũng được đánh giá là quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế hàng năm thuộc hàng tốt nhất khu vực.

Nguồn: Báo Công Thương

5/ Gánh nặng kinh tế của ĐNA trước làn sóng Covid-19 mới

Các số liệu hàng quý được công bố ngày 11/5 – thấp hơn tất cả các dự báo cho Philippines – thêm vào những tín hiệu yếu hơn gần đây từ các nền kinh tế hàng đầu trong khu vực là Indonesia và Thái Lan. Tất cả 4 quốc gia đã phải đối mặt với sự gia tăng của các trường hợp Covid-19 trong những tuần gần đây, một phần của thách thức rộng lớn hơn ở các nền kinh tế đang phát triển của châu Á trong việc ngăn chặn một đợt bùng phát mới, đặc biệt là ở Ấn Độ.

Trong số các nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á, chỉ có Singapore và Việt Nam, những nước có khả năng kiềm chế đại dịch, đã cho thấy mức độ tăng trưởng hàng năm trong quý đầu tiên.

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) vào cuối tháng trước đã hạ dự báo năm 2021 cho khu vực xuống 4,4% và giảm dự báo cho Malaysia, Philippines và Thái Lan. Cụ thể là tổng sản phẩm quốc nội của Philippines giảm 4,2%, so với mức giảm trung bình 3,2% dự kiến ​​trong một cuộc khảo sát của Bloomberg. Malaysia giảm 0,5%, so với ước tính 0,9%. Indonesia vừa báo cáo mức giảm 0,74%, so với mức dự kiến ​​giảm 0,65%. Thái Lan, quốc gia dự kiến ​​sẽ giảm khi chính phủ báo cáo số liệu quý đầu tiên vào tuần tới, gần đây đã hạ triển vọng cả năm, với việc Bộ Tài chính nước này chỉ ra hoạt động du lịch kém.

quay trở lại các hạn chế nghiêm ngặt hơn ở Manila và các khu vực kinh tế trọng điểm khác đe dọa mục tiêu của chính phủ là tăng trưởng ít nhất 6,5% trong năm nay, mục tiêu này đang được xem xét. Nó cũng được cho là sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp, vốn vẫn chưa cho thấy sự cải thiện đáng kể.

Công bố GDP ngày 11/5 của Malaysia được đưa ra một ngày sau khi Thủ tướng Muhyiddin Yassin công bố các hạn chế di chuyển trên toàn quốc để ngăn chặn sự gia tăng mới nhất trong các trường hợp nhiễm Covid-19. Trong một cuộc họp báo, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Malaysia Nor Shamsiah Yunus cho biết trong tương lai, nền kinh tế sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ nhu cầu bên ngoài mạnh mẽ và điều kiện trong nước được cải thiện.

Indonesia, nền kinh tế lớn nhất khu vực, dự kiến ​​sẽ tăng trưởng trong quý này với tốc độ nhanh nhất kể từ năm 2008 khi chính phủ chuyển sang các chương trình kích thích mới để nâng cao nhu cầu trong nước. Trong khi đó, Bộ Tài chính Thái Lan, cơ quan đầu tiên của quốc gia này điều chỉnh lại triển vọng của mình, vào tháng trước đã cắt giảm dự báo tăng trưởng kinh tế lần thứ hai trong năm nay khi Thái Lan phải vật lộn với đợt bùng phát lớn nhất của đại dịch Covid-19.

Nguồn: Báo Công Thương

6/ Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 12: trợ cấp, tranh chấp, và hợp tác cùng phát triển

Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đang trong quá trình chuẩn bị cho Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 12 (MC12) vào cuối năm nay và những vấn đề dự kiến đạt được đồng thuận tại hội nghị này bao gồm trợ cấp thủy sản, nông nghiệp và đại dịch Covid-19. Việc đưa ra các kết quả đàm phán cụ thể là rất quan trọng đối với uy tín của WTO trong bối cảnh hiện nay.

Về trợ cấp thủy sản, WTO kêu gọi các thành viên thực hiện sự linh hoạt cần thiết để vượt qua các rào cản còn lại. Với sự tham gia của các bộ trưởng có khả năng cần thiết để hoàn tất một thỏa thuận vào tháng 7, các phái đoàn WTO cùng với Chủ tịch Ủy ban Đàm phán thương mại là Đại sứ Santiago Wills của Colombia, chuẩn bị một dự thảo văn bản đàm phán với một số vấn đề còn tồn tại tối thiểu để các bộ trưởng giải quyết.

Tổng giám đốc WTO đốc Okonjo-Iweala, hoan nghênh quan điểm của nhiều thành viên WTO rằng, MC12 có thể đưa ra những phản ứng cụ thể về thương mại và y tế. Quan điểm của WTO về các hạn chế xuất khẩu và nhu cầu tăng khối lượng sản xuất vaccine đã nhận được sự quan tâm và tham gia của các nhà lãnh đạo.

Về vấn đề giải quyết tranh chấp, trong đó nhiều thành viên kêu gọi giải quyết bế tắc tại Cơ quan Phúc thẩm, Tổng giám đốc WTO bày tỏ hy vọng rằng, các thành viên MC12 “có thể đạt được sự hiểu biết chung về các loại hình cải cách cần thiết”. Chủ tịch Đại hội đồng, Đại sứ Dacio Castillo của Honduras, đang tham vấn các đề xuất về các vấn đề cụ thể đối với các nước kém phát triển nhất như các đề xuất của G-90 về đối xử đặc biệt và khác biệt cũng như đối với các nền kinh tế nhỏ và các lĩnh vực như thương mại điện tử. Các nhóm thành viên đã báo hiệu mong muốn tiến lên trong các lĩnh vực như quy định trong nước đối với dịch vụ, thương mại điện tử, tạo thuận lợi đầu tư, trao quyền cho phụ nữ, doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa cũng như biến đổi khí hậu.

Trong những ngày tới, nhà lãnh đạo WTO sẽ tăng cường tiếp cận với các trưởng phái đoàn, tổ chức các cuộc họp “với nhiều hình thức lớn nhỏ khác nhau” để hỗ trợ chủ tọa của các nhóm đàm phán trong nỗ lực tạo ra sự thỏa hiệp giữa các thành viên. Đồng thời sẽ phối hợp chặt chẽ với Chủ tịch Đại hội đồng và Chủ tịch các cơ quan đàm phán cũng như Chủ tịch MC12 Kazakhstan để tiến hành các cuộc họp này.

Nguồn: Báo Công Thương

Tổng giám đốc WTO bày tỏ hy vọng rằng vào tháng 7, các thành viên sẽ có thể hoàn tất một thỏa thuận về trợ cấp thủy sản và đạt được sự rõ ràng về những gì có thể đưa ra tại MC12, dự kiến ​​diễn ra từ ngày 30/11 – 3/12 tại Geneva.

7/ Những cảng Container hoạt động hiệu quả nhất thuộc về Châu Á

Theo chỉ số mới do Ngân hàng Thế giới và IHS Markit ngày 12/5 cho thấy các cảng container ở châu Á đã hoạt động hiệu quả nhất trong thời kỳ xuất khẩu tăng vọt kéo dài, vốn “nuôi sống” các nền kinh tế phương Tây và thách thức cảng của chính họ.

Các cảng Đông Á đặc biệt chiếm ưu thế trong Chỉ số hoạt động cảng container (CPPI), dựa trên tổng số giờ cảng trên mỗi chuyến tàu, được tham chiếu chéo với khối lượng công việc đạt được. Cảng Yokohama của Nhật Bản dẫn đầu chỉ số, tiếp theo là Cảng King Abdullah của Ả Rập Xê Út và Thanh Đảo của Trung Quốc.

Chỉ số này được đưa ra vào thời điểm các cảng ở một số khu vực trên thế giới đang bị tắc nghẽn ở mức độ cao, gây thêm áp lực lạm phát trong bối cảnh phục hồi kinh tế toàn cầu. Trong đại dịch Covid-19, đã chứng kiến ​​sự chậm trễ của cảng gây ra tình trạng thiếu hàng thiết yếu và giá cả cao hơn. Về dài hạn, tắc nghẽn hàng hóa có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế, tạo ra chi phí cao hơn cho các nhà xuất khẩu nhập khẩu và gây áp lực giảm việc làm.

Xét về các vị trí dẫn đầu khu vực, Algeciras ở Tây Ban Nha là cảng châu Âu xếp hạng cao nhất ở vị trí thứ 10, trong khi Colombo, Sri Lanka, là cảng xếp hạng hàng đầu ở Nam Á và thứ 17 trên toàn cầu. Lazaro Cardenas của Mexico được xếp hạng 25 và cao nhất ở Mỹ Latinh. Halifax là cảng Bắc Mỹ duy nhất lọt vào top 50, xếp thứ 39. Ở vị trí thứ 61, Djibouti là cảng được xếp hạng hàng đầu ở châu Phi. Có những khoảng cách lớn trong hiệu suất cảng toàn cầu được đo bằng chỉ số. Ví dụ, mất 1,1 phút để xếp hoặc dỡ một container trong một chuyến ghé cảng tiêu chuẩn tại Yokohama, trong khi một chuyến di chuyển tương tự tại một cảng châu Phi trung bình sẽ mất hơn ba lần, với 3,6 phút.

Theo báo cáo kỹ thuật của Ngân hàng Thế giới và IHS Markit, mặc dù hầu hết các cảng chính đều thu thập dữ liệu hiệu suất của cảng, nhưng chưa có sự thu thập nhất quán về dữ liệu đó giữa các cảng, cũng như chưa có sự phát triển của các tiêu chuẩn về chất lượng, tính nhất quán và tính khả dụng cũng như các biện pháp để so sánh. Báo cáo cho biết, chỉ số CPPI thay đổi điều đó, mở đường cho ngành công nghiệp hướng tới những cải tiến trên toàn hệ thống.

Nguồn: Báo Công Thương

8/ Covid-19 và Ấn Độ – Đòn đánh mạnh tới nhiều ngành công nghiệp quan trọng toàn cầu

Làn sóng Covid-19 ở Ấn Độ có nguy cơ làm đình trệ sự phục hồi kinh tế của đất nước và đe dọa một số ngành công nghiệp quan trọng toàn cầu. Hiện tại, một số ngành công nghiệp toàn cầu phụ thuộc vào Ấn Độ đang cảm thấy lo lắng. Nếu cuộc khủng hoảng y tế lần này tiếp tục kéo dài thì ngành may mặc, dược phẩm, dịch vụ tài chính và vận chuyển đều có thể cảm thấy “đau đớn”.

Chuỗi cung ứng

80% hàng hóa trên thế giới được vận chuyển bằng đường biển và theo Guy Platten, Tổng thư ký Phòng Vận tải biển Quốc tế, hơn 200.000 trong số khoảng 1.700.000 triệu thuyền viên trên toàn cầu đến từ Ấn Độ. Nhiều người trong số họ đang làm công việc đòi hỏi các kỹ năng quan trọng.

Ông Platten nhấn mạnh: “Chúng tôi hy vọng khủng hoảng y tế có thể nhanh chóng được giải quyết. Nếu không, cuộc khủng hoảng này có thể dẫn đến tình trạng thiếu hụt thuyền viên, làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu. Hiện tại, nhiều quốc gia đã cấm các chuyến bay từ Ấn Độ, vì vậy, việc đưa công nhân Ấn Độ đến các cảng trên thế giới là không thể”.

René Piil Pedersen, người đứng đầu Bộ phận Quan hệ Hàng hải của Maersk, công ty vận tải container lớn nhất thế giới cho rằng, công ty của ông sử dụng 30% thuyền viên đến từ Ấn Độ. Covid-19 khiến các thủy thủ đoàn sẽ không thể rời tàu và trở về nhà.

Ông Pedersen nói: “Sẽ phải trả giá nặng nề về phúc lợi tinh thần của thuyền viên”.

Đại dịch đã khiến vận tải biển toàn cầu trở nên hỗn loạn vào năm ngoái, với gần 200.000 thuyền viên bị mắc kẹt trong nhiều tháng do cảng đóng cửa. Một số công nhân đã bắt đầu gọi các tàu là “nhà tù nổi” và ông Pedersen lo ngại kịch bản đó sẽ lặp lại nếu cuộc khủng hoảng Covid-19 của Ấn Độ không có dấu hiệu suy giảm.

Vaccine và dược phẩm

Hệ thống tiêm chủng vaccine trên thế giới đang bị ảnh hưởng bởi sự bùng phát ở Ấn Độ, quốc gia sản xuất hơn 60% tổng số vaccine trên toàn cầu. Đất nước này là nơi đặt trụ sở của Viện Huyết thanh Ấn Độ (SII), nhà sản xuất vaccine lớn nhất thế giới.

Năm ngoái, SII đã đồng ý sản xuất tới 200 triệu liều vaccine ngừa Covid-19 cho 92 quốc gia. Tuy nhiên, chỉ có 2% dân số Ấn Độ được tiêm chủng đầy đủ.

Hiện tại, chính phủ và SII đã chuyển trọng tâm từ việc cung cấp vaccine cho các quốc gia khác sang ưu tiên công dân Ấn Độ. Việc Ấn Độ trì hoãn xuất khẩu vaccine có thể khiến nhiều quốc gia trên thế giới bị tổn thương bởi SARS-CoV-2.

Tin xấu không kết thúc ở đó. Ngoài sự thiếu hụt vaccine Covid-19, có thể có những hậu quả khác đối với ngành công nghiệp dược phẩm trên toàn thế giới nếu sự lây lan của dịch Covid-19 ở Ấn Độ không được kiểm soát sớm. Ấn Độ là nhà cung cấp thuốc gốc (biệt dược) lớn nhất thế giới.

Có tới 70% nguyên liệu thô của các nhà sản xuất thuốc Ấn Độ được nhập khẩu từ Trung Quốc. Vào cuối tháng 4/2021, hãng hàng không Tứ Xuyên (Sichuan Airlines) của Trung Quốc đã tạm dừng các chuyến bay chở hàng đến Ấn Độ trong 15 ngày. Điều đó đã khiến các tập đoàn xuất khẩu dược phẩm hàng đầu của Ấn Độ phải viết thư nhờ Đại sứ Ấn Độ tại Bắc Kinh can thiệp.

Ngành may mặc

Ấn Độ là một trong những nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới đang phải vật lộn với tình trạng thiếu lao động trầm trọng.

Arpit Aryan Gupta, Giám đốc phát triển kinh doanh của nhà sản xuất quần áo NG Apparels, ở Ludhiana, Punjab bày tỏ: “Đây là lần đầu tiên thế hệ chúng tôi phải trải qua cuộc khủng hoảng tồi tệ như hiện tại”.

Công ty NG Apparels cung cấp các sản phẩm mang thương hiệu New Balance và Nordstrom, sử dụng khoảng 100 công nhân lành nghề và gần 50% trong số họ đã nghỉ việc kể từ khi Covid-19 bùng phát. Giám đốc Gupta cho biết, công ty hiện đang cung cấp nhà ở cho những công nhân còn lại để nhà máy tiếp tục hoạt động.

Theo Wazir Advisors, năm 2020, số lượng sản phẩm tiêu thụ và xuất khẩu của ngành may mặc đã giảm lần lượt 30% và 24%.

Dịch vụ tài chính

Nhiều ngân hàng lớn của nước ngoài đặt trụ sở tại Ấn Độ đang nỗ lực duy trì hoạt động trực tuyến trong bối cảnh đại dịch.

Điển hình, ngân hàng Goldman Sachs và Wells Fargo đã triển khai cho nhân viên làm việc từ xa. Tuy nhiên, làm việc tại nhà trong thời kỳ đại dịch rất phức tạp, chẳng hạn như vấn đề bảo mật và bảo vệ dữ liệu, vì nhân viên có thể phải xử lý thông tin nhạy cảm của công ty hoặc khách hàng.

Các ngân hàng Anh như Barclays, NatWest và Standard Chartered đang chuyển hướng hoạt động kinh doanh sang các quốc gia khác để giảm bớt áp lực cho nhân viên ở Ấn Độ.

Theo Julie Teigland tại EY India, công ty có hơn 56.000 công nhân, hầu hết các nhân viên của công ty đều đang làm việc tại nhà.

Nguồn: Báo Quốc Tế

9/ Ngành dệt may vẫn khó tận dụng các FTA

Ông Phạm Xuân Hồng – Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần May Sài Gòn 3, và là Chủ tịch Hội Dệt may Thêu đan TPHCM (AGTEX) – cho biết hiện hầu hết các doanh nghiệp hội viên hiện đã có đơn hàng đến hết tháng 6, một số doanh nghiệp có đơn hàng đến tháng 7 và tháng 8. “Nhà nhập khẩu chính vẫn là ở những thị trường truyền thống như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản.

Tín hiệu phục hồi

Trong đó, Mỹ – thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam – tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước, với trị giá đạt 3,51 tỉ đô la và chiếm 48,7% tổng trị giá xuất khẩu hàng dệt may của cả nước hay thị trường EU (27 nước) tiêu thụ 680 triệu đô la, tăng 3,1%…, các doanh nghiệp đã tìm được hướng đi phù hợp và thị trường dệt may thế giới đã dần sôi động trở lại.

Hàng may mặc cơ bản thắng thế

Theo ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐQT tập đoàn dệt may Việt Nam (Vinatex), trong năm 2020, các mặt hàng veston, sơ-mi, quần âu suy giảm mạnh nhất, trong đó veston giảm 70%, quần âu giảm 45%, áo sơ mi giảm hơn 30%. Đây lại là những mặt hàng thế mạnh của Việt Nam.

Bước sang năm 2021, các mặt hàng thế mạnh kể trên có sự phục hồi dù còn ở mức thấp so với năng lực sản xuất của ngành may Việt Nam hiện có. Tuy nhiên, theo các doanh nghiệp, trong sáu tháng đầu năm nay thị trường đã và đang tiếp tục tiêu thụ mạnh các mặt hàng cơ bản, với giá cả tương đối rẻ hơn trước. Do đó, những doanh nghiệp lâu nay làm hàng may mặc thời trang có thể gặp khó khăn trong thời gian đầu chuyển đổi sang sản xuất hàng cơ bản, đơn giản.

Cùng với việc chuộng mua sắm các mặt hàng may mặc cơ bản này, người tiêu dùng có khuynh hướng chọn loại áo quần có chất liệu vải tốt cho sức khỏe, bền vững môi trường cũng như chọn thương hiệu quan tâm đến quyền người lao động.

Cùng với xu hướng tiêu dùng thay đổi là các áp lực phải giảm giá, sự cạnh tranh của phương thức bán hàng trực tuyến khiến giá trị đơn hàng phải nhỏ đi, yêu cầu về tính cá nhân hóa trên các sản phẩm, thời gian giao hàng nhanh lại tăng lên…

Cần gỡ cái khó cố hữu của ngành

Muốn tận dụng lợi ích về cắt giảm thuế quan từ các FTA, doanh nghiệp phải chứng minh được nguồn gốc sản xuất tại Việt Nam hoặc các nước nội khối trong hiệp định từ khâu sợi trở đi đối với CPTPP, từ vải trở đi với EVFTA…

Thực tế cho thấy, các đơn hàng của Việt Nam phần lớn may theo hình thức gia công, nguồn vải chủ yếu nhập khẩu cho nên việc đáp ứng yêu cầu về xuất xứ từ sợi trở đi là khá khó khăn. CPTPP có một số ngoại lệ cho phép không cần theo quy tắc về xuất xứ mà vẫn có thể hưởng ưu đãi về thuế.

Đối với EVFTA, yêu cầu về nguyên liệu sản phẩm rất khắt khe, trong khi nguồn nguyên liệu dệt may do Việt Nam sản xuất đạt chất lượng cao hiện chưa đáp ứng đủ nhu cầu của các doanh nghiệp. Dù các doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn nguyên liệu nhập khẩu ngoại khối từ các thị trường được EVFTA chấp nhận như Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ… nhưng chi phí  cao.

Theo ông Phạm Xuân Hồng, tỷ lệ tận dụng lợi thế từ các FTA hiện chỉ đạt mức 20-25%. Nghĩa là, hàng hóa may mặc Việt Nam vẫn đang xuất khẩu với thuế suất cao do không đủ điều kiện để được hưởng thuế suất giảm theo các FTA. Việc tăng kim ngạch xuất khẩu dệt may thời gian qua chỉ tập trung chủ yếu ở khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chứ doanh nghiệp nội địa chưa nhiều. Do đó, nếu các doanh nghiệp dệt may Việt Nam gia tăng được giá trị sản xuất từ thuần gia công lên mô hình OEM (nghĩa nhà cung ứng chủ động về nguyên vật liệu) và ODM (nhà cung ứng tham gia từ quá trình thiết kế ra sản phẩm), thì sẽ có cơ hội trở thành nhà cung ứng trực tiếp của các nhãn hàng phát triển bền vững hơn.

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn

10/ Việt Nam trên Con Đường Tơ Lụa Kỹ Thuật Số của Trung Quốc

Các tập đoàn Trung Quốc “phủ sóng” ASEAN

Theo số liệu ước tính, đến hết năm 2019 Trung Quốc đã chi tới 79 tỉ đô la Mỹ cho các dự án DSR trên toàn cầu và tổng giá trị đầu tư của DSR sẽ lên tới 200 tỉ đô la Mỹ.

Các tập đoàn công nghệ lớn của Trung Quốc đang tăng cường hỗ trợ về cơ sở hạ tầng viễn thông cho các quốc gia trong khu vực Asean. Huawei và ZTE đã cho thấy ý định mở rộng tại Asean thông qua các kế hoạch đặt cáp quang ở khu vực này. Họ đã hoàn thành hàng chục dự án và đang xây dựng thêm khoảng 20 dự án nữa, chủ yếu ở Indonesia và Philippines.

“Nếu dữ liệu là “dầu mỏ” của nền kinh tế số, thì cáp quang chính là đường ống dẫn dầu”, Tiến sĩ Phạm Sỹ Thành, Giám đốc Chương trình Nghiên cứu chiến lược Mekong – Trung Quốc (MCSS), cho biết đồng thời chỉ ra khát vọng của các công ty Trung Quốc trong việc khai thác loại tài sản mới này của thế giới.

Alibaba đã nắm quyền kiểm soát sàn thương mại điện tử Lazada, được coi là Amazon của ASEAN. Các mảng về thanh toán điện tử và Internet tại khu vực cũng đang được đầu tư bởi các công ty như Bytedance, sở hữu nền tảng mạng xã hội TikTok; Ant Group thuộc Alibaba, và SEA được hậu thuẫn bởi Tencent.

Tiêu chuẩn công nghệ Made in China

Chương trình DSR là sự giao thoa giữa BRI và hai sáng kiến lớn khác của Chính phủ Trung Quốc là “Sản xuất tại Trung Quốc 2025” và “Tiêu chuẩn Trung Quốc 2035”. Qua đó, Bắc Kinh tham vọng trở thành cường quốc trong lĩnh vực sản xuất tiên tiến và thiết lập các tiêu chuẩn công nghệ toàn cầu cho các công nghệ như Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo và 5G trong 15 năm tới.

Bên cạnh đó, lĩnh vực công nghệ chuỗi khối (blockchain) cũng được Chính phủ Trung Quốc đặc biệt lưu tâm khi mở ra “Mạng lưới dịch vụ chuỗi khối” (Blockchain Service Network – BSN) dưới sự kiểm soát của chính phủ. Chỉ trong vòng nửa năm, mạng lưới này đã mở rộng đến hàng chục quốc gia, trong đó có Mỹ, Nhật Bản và Úc.

Không chỉ Trung Quốc, mà Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản và Nga cũng muốn thiết lập một tiêu chuẩn chung cho các ngành công nghệ, nhưng theo hướng có lợi cho quốc gia mình.

Một phương thức phổ biến của Trung Quốc là các viện trợ và các dự án phát triển hạ tầng của BRI, DSR đều có những ràng buộc như yêu cầu mua công nghệ của công ty Trung Quốc, từ đó trực tiếp tích hợp hệ thống theo chuẩn công nghệ của nước này vào các quốc gia tiếp nhận kinh phí.Thực tế kể từ khi BRI ra đời vào năm 2013, Việt Nam đã tiếp cận một cách thận trọng đối với nguồn tài trợ của Trung Quốc.

Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á Singapore, giải thích rằng Việt Nam không muốn nhận tài trợ của Trung Quốc vì không muốn “hàm ơn” Trung Quốc, ngay cả khi nước ta cần vốn để phát triển cơ sở hạ tầng. Nguyên nhân sâu xa chủ yếu nằm ở tranh chấp tại biển Đông.

Cơ hội và thách thức cho Việt Nam

“Huawei có công nghệ rẻ hơn nhưng rủi ro về mặt an ninh. Khi từ chối Huawei và đi theo con đường riêng của mình, Việt Nam có cơ hội để tự phát triển”, ông Hiệp nhấn mạnh.

Ba nhà mạng di động lớn nhất của Việt Nam là Viettel, MobiFone và VNPT chiếm gần 96% thị phần thuê bao di động Việt Nam và là ba công ty được cấp phép thương mại hóa 5G trong nước đều quyết định tự phát triển công nghệ này với các đối tác từ các quốc gia khác, cụ thể là Ericsson AB của Thụy Điển, Nokia Oyj của Phần Lan, Qualcomm của Mỹ và Samsung của Hàn Quốc.

Về khả năng triển khai DSR tại Việt Nam trong tương lai, ông Thành cho rằng quyết định này dựa nhiều vào phía doanh nghiệp hơn là Chính phủ.

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn

Thương mại điện tử ở Đông Nam Á là mảnh đất còn nhiều dư địa.

11/ Dư địa còn nhiều của ngành thương mại điện tử ở Đông Nam Á?

Bất chấp những thách thức của dịch Covid-19, năm 2020 quy mô thương mại điện tử toàn cầu vẫn tăng trưởng 27% đạt 4.280 tỷ USD. Động lực chính đến từ khu vực Châu Á chiếm hơn 60% nhờ thị trường hơn 1,3 tỷ dân của Trung Quốc.

Trong đó, Alibaba là tập đoàn bán lẻ trực tuyến lớn nhất khu vực tiếp tục tăng trưởng doanh thu 34% trong 9 tháng cuối năm 2020. Gã khổng lồ thương mại điện tử của Trung Quốc liên tục mở rộng hoạt động thông qua các thương vụ rót vốn vào các nền tảng bán lẻ, cả online và offline.

Cuối tháng trước Alibaba đã đầu tư thêm 350 triệu USD vào Trendyol, nền tảng thương mại điện tử phổ biến nhất tại Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là lần rót vốn thứ 2, tổng cộng gần 1,1 tỷ USD, của Alibaba vào công ty này. Trendyol là một trong 3 nền tảng thương mại điện tử ngoài Trung Quốc đang được Alibaba vận hành cùng với Lazada tại Đông Nam Á và Daraz tại Nam Á.

Trong 4 năm qua, song song với việc thực hiện hàng loạt thương vụ M&A ở trong nước nhằm củng cố vị thế dẫn đầu, Alibaba đã tăng cường đầu tư ở nhiều thị trường nhằm mở rộng hệ sinh thái bán lẻ trực tuyến khổng lồ của mình.

Đặc biệt tại Đông Nam Á, năm 2016, Alibaba đã chi khoảng 1 tỷ USD để nắm giữ cổ phần chi phố tại Lazada, nền tảng thương mại điện tử hàng đầu tại khu vực khi đó. Sau đó, Alibaba tiếp tục đầu tư vào nhiều công ty khác trong lĩnh vực thương mại điện tử như Tokopedia, Remart và thanh toán như Ascend Money (Thái Lan), Mynt (Philippines), Toucho’n Go (Malaysia).

Tại Việt Nam, Ant Financial – công ty fintech của Alibaba được cho là đã mua lại ví điện tử eMonkey để bước chân vào thị trường thanh toán trung gian và hướng đến tiềm năng cung cấp dịch vụ tài chính cho người tiêu dùng.

Không chỉ Alibaba, các tập đoàn lớn khác của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ cũng đầu tư mạnh vào thương mại điện tử Việt Nam. Tập đoàn Tencent thông qua SEA Limited đang đầu tư mạnh mẽ vào nền tảng bán hàng trực tuyến Shopee, đồng thời cũng đã mua lại cổ phần của ví điện tử Airpay của Công ty M-Pay.

Trong khi đó, TIKI trong các lần gọi vốn gần đây đã được JD.com rót vốn khủng hàng trăm triệu USD. Ngoài ra TIKI còn được đầu tư bởi VNG, công ty kỳ lân đầu tiên của Việt Nam, được hỗ trợ bởi các nhà đầu tư có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Nguồn vốn lớn từ các nhà đầu tư giúp các trang thương mại điện tử tại Việt Nam duy trì cuộc đua ‘đốt tiền’ để chiếm lĩnh thị trường. Ước tính trong 3 năm từ 2016 đến 2018, 3 công ty thương mại điện tử lớn nhất thị trường là TIKI, Lazada và Shopee ghi nhận lỗ khoảng 10.000 tỷ đồng.

Số lỗ được cho là tiếp tục tăng trong 2 năm qua nhưng các vòng gọi vốn mới vẫn tiếp tục diễn ra. Thậm chí mới đây TIKI còn lên kế hoạch sáp nhập với Sendo, hai nền tảng của Việt Nam muốn gia tăng sức cạnh tranh với Shopee và Lazada sau khi có dấu hiệu bị hụt hơi trong cuộc đua top 4.

Cạnh tranh khốc liệt của thị trường bán lẻ trực tuyến đã khiến những tên tuổi lớn như Lotte hay Adayroi rút lui. Dù vậy, tiềm năng của thị trường này ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á vẫn được dự báo tiếp tục tăng trưởng cao trong những năm tới.

Một báo cáo của Google, Temasek và Bain& Compnay về nền kinh tế số ở khu vực Đông Nam Á cho biết giá trị của các thị trường thương mại điện tử, gọi xe, đặt chỗ du lịch đạt khoảng 100 tỷ USD năm 2020 và sẽ tăng lên hơn 300 tỷ vào năm 2025.

Tại Việt Nam, riêng hoạt động bán lẻ trực tuyến đạt giá trị khoảng 7 tỷ USD năm ngoái và được dự báo tăng lên 29 tỷ USD vào năm 2025. Cùng với tăng trưởng ở các lĩnh vực gọi xe, đặt chỗ, nền kinh tế số của Việt Nam đến năm 2025 ước tính sẽ vượt mốc 50 tỷ USD.

Mức tăng trưởng dự báo 34% của thị trường bán lẻ trực tuyến Việt Nam trở thành con số hấp dẫn đặc biệt các nhà đầu tư. Amazon đang tăng cường hiện diện ở Singapore và cả Việt Nam. Trong mảng giao đồ ăn, Delivery Hero (Đức) và Line Man (Nhật Bản), Beamin (Hàn Quốc) đều đã đẩy mạnh đầu tư ở Đông Nam Á.

Gần đây, gã khổng lồ Alibaba được đồn đoán tiếp tục gia nhập sâu hơn vào thị trường bán lẻ trực tuyến của Việt Nam với việc bắt tay với một trong những tập đoàn tư nhân lớn nhất. Kinh nghiệm 20 năm phát triển thương mại điện tử của Alibaba được kì vọng sẽ kết hợp với thế mạnh của tập đoàn trong nước để thúc đẩy quá trình hiện đại hóa ngành bán lẻ của Việt Nam.

Nguồn: Tạp chí Tài chính

12/ Sàn thương mại điện tử: kênh tiêu thụ mới cho nông sản

Vải thiều Thanh Hà lên sàn TMĐT

Vải thiều Thanh Hà được mở bán trong gian hàng tỉnh Hải Dương trong khuôn khổ chương trình cấp quốc gia về xúc tiến thương mại trên nền tảng Lazada với giá ưu đãi cùng chính sách hỗ trợ giao hàng. Bên cạnh đó, Lazada cũng sẽ triển khai các hoạt động quảng bá sản phẩm tới người tiêu dùng.

Công ty TNHH Sản xuất thương mại dịch vụ Rồng Đỏ (Công ty Rồng Đỏ) là đơn vị đồng hành của chương trình. Rồng Đỏ vừa là đơn vị đầu mối thu mua, vừa trực tiếp hỗ trợ hậu cần, đảm bảo quy cách để đưa sản phẩm tươi đến tay người tiêu dùng.

Các chương trình như “Gian hàng Việt trực tuyến quốc gia” trên các sàn thương mại điện tử như Voso.vn, Sendo.vn mà Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số đang triển khai sẽ hỗ trợ doanh nghiệp địa phương và nông dân tiếp cận phương thức kinh doanh mới và ở góc độ nào đó, nhanh chóng hòa mình vào dòng chảy chuyển đổi số quốc gia.

Gần 30 tấn hành tím Vĩnh Châu đã được tiêu thụ qua sàn TMĐT

Sau 10 ngày triển khai hỗ trợ tiêu thụ, đã có gần 10.000 đơn hàng đã được đặt mua với gần 30 tấn hành tím đã đến tay người mua. Theo báo cáo từ sàn TMĐT Voso.vn, lượng đơn hàng vẫn tăng lên hàng ngày, trung bình tiêu thụ từ 3-5 tấn/ngày. Hiện tại, chương trình vẫn đang được sàn TMĐT Voso.vn phân phối với mức giá ưu đãi cho người mua và hỗ trợ phí vận chuyển. Ước tính sau khi kết thúc chương trình vào cuối tháng 5-2021 sẽ có khả năng tiêu thụ được khoảng 150 tấn hành tím đặc sản cho nông dân huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn

13/ Thủy sản Việt Nam đã nắm bắt cơ hội từ các FTA ra sao?

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) dự báo xuất khẩu thủy sản trong quý II/2021 sẽ tiếp tục tăng trưởng với mức 10% và khả năng đạt 2,1 tỷ USD.

Xuất khẩu thủy sản đã có sự bứt phá trở lại với sự tăng trưởng khá trong 4 tháng đầu năm khi đạt 2,39 tỷ USD về kim ngạch và tăng trên 6% so với cùng kỳ năm ngoái. Sự tăng trưởng diễn ở nhiều mặt hàng và nhiều thị trường xuất khẩu chính của thủy sản Việt Nam. Kết quả này minh chứng các doanh nghiệp ngày càng tận dụng tốt cơ hội mở cửa thị trường từ các Hiệp định thương mại tự do cũng như xử lý tốt hơn các tình huống trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đang diễn ra phức tạp.

Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, các thị trường nhập khẩu lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc tiếp tục tăng nhập khẩu. Các nước khu vực châu Á và một số nước sản xuất cạnh tranh như Ấn Độ, Thái Lan vẫn đang đối phó với dịch COVID-19 nghiêm trọng. Từ đó, thêm cơ hội cho Việt Nam.

Điển hình là thị trường Mỹ sẽ tiếp tục là điểm sáng cho thủy sản Việt Nam trên nhiều mặt hàng như tôm, cá tra, hải sản… Đặc biệt đối với tôm, Việt Nam sẽ có cơ hội nhiều hơn tại Mỹ khi Ấn Độ gặp khó khăn về sản xuất do dịch COVID-19.

Đánh giá về khả năng tăng trưởng của mặt hàng tôm, ông Hồ Quốc Lực cho hay, các cường quốc nuôi tôm đang bị tác động của dịch COVID-19 có thể bị đứt gãy chuỗi cung ứng bất kỳ lúc nào và khả năng sẽ không có sự tăng trưởng về mặt hàng tôm ở nước này. Như vậy nguồn cung trên thế giới nhìn chung sẽ không tăng, điều đó tạo cơ hội cho Việt Nam.

Về cầu trên thế giới, tăng trưởng tự nhiên của mặt hàng tôm khoảng 5%/năm nhưng do dịch COVID-19 khiến người tiêu dùng có xu thế tìm mặt hàng có giá cả phù hợp với tài chính của mình.

“Cung – cầu như vậy nên khả năng giá tôm sẽ tăng nhẹ. Khả năng Việt Nam sẽ tăng được lượng tiêu thụ tôm từ 5 – 7%”, ông Hồ Quốc Lực nhận định.

Trong bối cảnh hiện nay, ông Hồ Quốc Lực cho biết, người tiêu dùng cần những loại thực phẩm tiện lợi hơn trong chế biến. Do đó các sản phẩm phải đóng gói không quá lớn và chế biến sâu. Doanh nghiệp cần bán qua kênh phân phối, kênh bán lẻ không phải kênh dịch vụ (nhà hàng, khách sạn..). Doanh nghiệp cũng cần tổ chức sản xuất để có giá thành vừa phải. Bản thân Công ty cổ phần Thực phẩm Sao Ta đang trên lộ trình và đã có những sản phẩm mới để đáp ứng được tình huống này.

Các doanh nghiệp khác cũng cho rằng, thị trường nhập khẩu Hàn Quốc, châu Âu, Mỹ, Australia, Nhật Bản… thay đổi rõ rệt cũng khiến cho các doanh nghiệp chuyển hướng sang cung cấp phân phối đến tận các chuỗi siêu thị, cửa hàng bán lẻ.

Tuy có những tín hiệu tốt về thị trường nhưng xuất khẩu sẽ vẫn bị tác động bởi các gói cước vận chuyển và các chi phí đầu vào tăng ngoài khả năng kiểm soát, đồng thời có sự chuẩn bị, dự trữ các vật tư cần thiết cho các trại nuôi.

Tiếp tục tháo gỡ rào cản kỹ thuật, mở rộng thị trường xuất khẩu thủy sản, Cục Thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, đơn vị đang và tiếp tục làm việc với cơ quan thú y có thẩm quyền các nước như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Australia, Hoa Kỳ, Brazil, Mexico, Costa Rica…Với thị trường Trung Quốc, Cục Thú y tiếp tục hỗ trợ, hướng dẫn các địa phương và các doanh nghiệp thực hiện các yêu cầu về vệ sinh thú y, giám sát dịch bệnh.

Theo Tổng cục Thủy sản, năm nay, diện tích nuôi trồng thủy sản giữ ổn định 1,3 triệu ha, nhưng sản lượng đạt 4,75 triệu tấn, tăng 4,2% so với năm 2020. Trong bối cảnh giá thức ăn thủy sản vẫn ở mức cao, ông Trần Đình Luân, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho biết, ngành thủy sản sẽ tiếp tục đẩy mạnh liên kết trong sản xuất để tiếp cận với nguồn cung ứng vật tư đầu vào có chất lượng tốt, giá cả phù hợp, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng khoa học, tăng năng suất, giảm chi phí, giảm hệ số chuyển đổi thức ăn, bảo vệ môi trường trong nuôi trồng.

Nguồn: Báo Công Thương

14/ Khơi thông xuất khẩu, nâng tầm thương hiệu vải thiều Việt Nam

Nhóm sản xuất của ông Mùi có 102 hộ với gần 10ha trồng vải tại Thanh Hà (Hải Dương), sau 5 năm áp dụng tiêu chuẩn VietGap thì từ năm nay đã chính thức chuyển sang áp dụng trồng vải theo tiêu chuẩn Global Gap.

“Hàng xuất khẩu bán có giá cao hơn, giúp xây dựng thương hiệu nhưng chưa được nhiều, lại thêm khó khăn do dịch bệnh, vận chuyển. Như vừa rồi chúng tôi có vải trứng trắng đang vào vụ xuất được sang Singapore, doanh nghiệp cũng đặt vấn đề thu mua, nhưng do vướng tàu hàng, nên lại phải bán trong nước.

Rồi cũng có một số doanh nghiệp đặt vấn đề thu mua, hứa hẹn nhiều, nhưng đến nay chưa có hợp đồng chính thức nên chúng tôi vẫn phải chủ động, tìm mối tiêu thụ qua tư thương và xuất sang Trung Quốc” – ông Mùi cho hay.

Với Công ty cổ phần Ameii, việc đầu tư sản xuất theo chuỗi khép kín từ vùng nguyên liệu đến chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu giúp mang lại nhiều lợi thế. Công ty có 5 mã vùng trồng với diện tích 50ha, do các hợp tác xã sản xuất với quy trình chăm sóc chặt chẽ.

Công ty cũng đầu tư máy móc để sơ chế, bảo quản trái vải, đảm bảo đến khi tới tay người tiêu dùng được 30 ngày. Nhờ nâng chất lượng sản phẩm nên đến nay, 80% quả vải của Công ty Ameii đã xuất được vào các thị trường khó tính như Nhật Bản, Úc, EU. Song theo bà Hồng, khó nhất là đảm bảo ổn định vùng nguyên liệu khi mỗi thị trường đều có tiêu chuẩn riêng.

Chìa khóa từ quảng bá chỉ dẫn địa lý

Ông Vũ Bá Phú, cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công thương), cho hay với Chương trình cấp quốc gia về xúc tiến thương mại, quả vải và nông sản Hải Dương lần đầu tiên được bán trên các sàn thương mại điện tử từ ngày 15-5.

Đơn cử Lazada, không những ưu đãi giá tốt, còn có chính sách hỗ trợ hấp dẫn bằng giao hàng nhanh trong 4 giờ sau khi đặt hàng.  Hay cùng với sự tham gia Sendo, mở rộng các nhà phân phối ở siêu thị, doanh nghiệp thu mua và các cơ sở chế biến, Cục cũng hướng tới mục tiêu đưa quả vải lên trang thương mại điện tử lớn của quốc tế như Alibaba.

Với thị trường quốc tế, doanh nghiệp cung ứng vải và nông sản Hải Dương cũng sẽ được kết nối giao thương trực tuyến với 300 đầu mối nhập khẩu tiềm năng. Tuy vậy, ông Phú cho rằng để nâng cao chất lượng và giá trị thương hiệu quả vải, ngoài các hoạt động xúc tiến, kết nối cung cầu, Bộ Công thương còn chú trọng việc xây dựng chỉ dẫn địa lý, phát triển thương hiệu.

Theo đó, với vai trò là cơ quan đầu mối triển khai Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam – chương trình xúc tiến thương mại đặc thù, dài hạn và duy nhất của Chính phủ để quảng bá hình ảnh quốc gia, thương hiệu quốc gia thông qua việc hỗ trợ các doanh nghiệp nhằm nâng cao vị thế và giá trị gia tăng từng ngành hàng, Bộ Công thương đã phối hợp với Bộ Khoa học và công nghệ và địa phương hỗ trợ và hướng dẫn cho người dân thực hiện việc đăng ký chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam cũng như tại nước ngoài.

Đến nay, vải thiều Thanh Hà đã được đăng ký chỉ dẫn địa lý và được cấp bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý từ năm 2007.

Gắn với đó là các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật cho doanh nghiệp trong công tác xây dựng và phát triển, bảo vệ thương hiệu để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, vị thế của hình ảnh thương hiệu Việt Nam.

Nguồn: Báo Tuổi Trẻ

Nhiều hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá chỉ dẫn địa lý, nâng cao giá trị thương hiệu vải thiều Thanh Hà

15/ “Miếng bánh” thị phần Nhật Bản chờ doanh nghiệp

THỊ TRƯỜNG NHẬT CÒN NHIỀU DƯ ĐỊA

Đầu tiên là các sản phẩm dệt may, Nhật là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn trong khu vực Đông Bắc Á. Kim ngạch nhập khẩu khoảng 28 tỷ USD vào năm 2019. Tuy nhiên, dệt may Việt Nam mới chiếm 13,2% đối với tổng nhu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản. Đối thủ cạnh tranh của Việt Nam lớn nhất là Trung Quốc chiếm 55% thị phần, tiếp theo là Bangladesh, Indonesia, Thái Lan, Campuchia và Ý, mỗi nước chiếm thị phần dưới 10%.

Nhóm hàng da giày, kim ngạch nhập khẩu của Nhật lên tới 5,3 tỷ USD, trong đó, Việt Nam chiếm 18,5%. Đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc, Indonesia, Ý và Campuchia. Dung lượng thị trường nhập khẩu của Nhật với sản phẩm thủ công mỹ nghệ vào khoảng 200 triệu USD mỗi năm.

Việt Nam chiếm 8% thị phần, đứng thứ hai sau Trung Quốc (55% thị phần). Trong nhóm này, Trung Quốc chiếm ưu thế với các sản phẩm làm từ nguyên liệu nhựa (87% thị phần). Nhưng các sản phẩm mây tre, ta đang cạnh tranh rất tốt, chiếm tới 49% thị phần.

Nhóm gỗ ván ép, gỗ ván sàn, Nhật Bản có nhu cầu nhập khoảng 3,5 tỷ USD mỗi năm. Việt Nam còn nhiều tiềm năng xuất khẩu nhóm hàng này vào Nhật do thị phần còn rất khiêm tốn, mới chiếm khoảng 3% và 0,01% tổng nhập khẩu của Nhật. Nhóm hàng nông thuỷ sản như chuối, tôm, cua, mực… Nhật Bản có nhu cầu rất lớn, trong khi thị phần của Việt Nam chiếm tương đối nhỏ.

Về chuối, hiện nay Nhật Bản nhập khẩu mỗi năm khoảng 1 tỷ USD, trong khi Việt Nam mới chỉ xuất khẩu 3 triệu USD/năm. 90% chuối nhập khẩu của Nhật hiện do Philippines cung cấp. Với tôm, cua, mực, thị phần của Việt Nam cũng còn rất khiêm tốn, chiếm từ 7,5%-20%. “Như vậy, Việt Nam còn rất nhiều dư địa để thúc đẩy xuất khẩu sang Nhật Bản”, ông Kiên nhận định.

Bên cạnh đó, trên thị trường Nhật, các sản phẩm của Việt Nam được hỗ trợ rất tốt, có lợi thế từ các FTA song phương, đa phương mà Việt Nam đã ký kết với Nhật Bản.

Đặc biệt, Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam, nhưng vẫn đang phải nộp thuế nhập khẩu vào Nhật Bản cao hơn như với da giày, dệt may, thủ công mỹ nghệ, nông thuỷ sản. “Đây là lợi thế không nhỏ để hàng Việt Nam có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc nếu chúng ta tiếp tục khai thác dư địa Thị trường Nhật Bản”, đại diện Vụ thị trường châu Á, châu Phi khẳng định.

TẠO THƯƠNG HIỆU, NÂNG CAO GIÁ TRỊ SẢN PHẨM

Ông Đỗ Quốc Hưng, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Á-châu Phi, Bộ Công Thương cho rằng  doanh nghiệp Việt Nam đã lớn mạnh hơn, năng lực cạnh tranh cao hơn, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần thường xuyên cập nhật thông tin về thay đổi xu hướng tiêu dùng, cũng như các chính sách của thị trường Nhật. Từ đó, doanh nghiệp xuất khẩu cần phải thay đổi ngay nếu không muốn mất thị phần.

Hơn nữa, khi Covid chưa dừng lại, thị trường chưa phục hồi, nên các thị trường này có xu hướng hạn chế đơn hàng lớn, chỉ đặt các đơn hàng nhỏ và yêu cầu giao nhanh nhằm hạn chế rủi ro. Với nhóm hàng nông lâm thuỷ sản, nhu cầu vẫn tăng với những sản phẩm chứng minh được độ an toàn, có truy xuất nguồn gốc, bao bì đẹp, đầy đủ thông tin, hướng dẫn sử dụng…

Ngoài ra, doanh nghiệp cần lưu ý tiêu chuẩn nhập khẩu vào thị trường này với từng nhóm hàng. Đơn cử, hàng dệt may, da giày xuất khẩu vào Nhật, không bắt buộc tiêu chuẩn nào nhưng để tiêu thụ tốt, xuất khẩu bền vững sang Nhật các doanh nghiệp cần chú ý nghiên cứu, đáp ứng các tiêu chuẩn JIS (tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản).

Nếu làm tốt điều này, các doanh nghiệp có thể xuất khẩu bền vững và ổn định sang Nhật. Với nhóm hàng nông, thuỷ sản, thực phẩm chế biến, theo ông Kiên, các sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn GAP, HACCP. Đặc biệt, tuy không bắt buộc nhưng nếu đáp ứng tiêu chuẩn hữu cơ thì coi như đã đảm bảo cho tiêu thụ ở thị trường này. Quy định về kiểm dịch, an toàn thực phẩm, chất lượng đặt yêu cầu rất cao đòi hỏi doanh nghiệp xuất khẩu tuân thủ nghiêm ngặt và minh bạch.

Hiện nay việc tiếp xúc các kênh phân phối tại Nhật còn hạn chế do hệ thống bán lẻ ở nước này đặt ra tiêu chuẩn mua hàng rất cao và khắt khe, khiến doanh nghiệp Việt không đáp ứng được hoặc không mặn mà trong việc đầu tư để đáp ứng các tiêu chuẩn này.

Chúng ta cần tập trung khai thác, kết nối trực tiếp với kênh phân phối này để vừa tạo thương hiệu, vừa nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm Việt Nam. Ông Minh gợi ý, doanh nghiệp muốn thâm nhập thị trường Nhật, đầu tiên hãy tham gia các hội chợ, triển lãm tại Nhật. Thông qua hội chợ, doanh nghiệp có thể tìm kiếm được đối tác mới, cũng như nắm bắt được xu hướng tiêu dùng đối với các sản phẩm Việt Nam có lợi thế.

Nguồn: VnEcocomy

16/ Mỹ và EU buộc Trung Quốc giải trình về “bóp méo thương mại”

Mỹ và Liên minh châu Âu cho biết hôm thứ 2 rằng họ có thể sẽ cùng hợp tác để buộc các quốc gia ủng hộ các chính sách bóp méo thương mại như Trung Quốc phải giải trình.

Tuyên bố trên đã được Đại diện Thương mại Mỹ Katherine Tai, Bộ trưởng Thương mại Mỹ Gina Raimondo và Phó chủ tịch điều hành Ủy ban Châu Âu Valdis Dombrovskis đưa ra.

Khi hai bên bắt đầu thảo luận về việc giải quyết tình trạng dư thừa thép và nhôm trên toàn cầu, Liên minh châu Âu đã đồng ý đình chiến một phần với Mỹ trong tranh chấp về mức thuế đối với kim loại của Mỹ do cựu tổng thống Mỹ Donald Trump áp đặt.

Hôm thứ 2, ủy ban cho biết họ sẽ đình chỉ đề xuất tăng thuế quan trả đũa – loại thuế mà đã áp đặt lên nhiều sản phẩm từ son môi đến giày thể thao và tăng gấp đôi lên 50% thuế đối với rượu whisky bourbon của Mỹ, xe máy và thuyền có động cơ.

Trong một tuyên bố chung, Brussels và Washington nói rằng, với tư cách là đồng minh, họ có thể thúc đẩy các tiêu chuẩn cao, giải quyết các mối quan tâm chung.

Phó chủ tịch điều hành Dombrovskis, đại sứ Tai và thư ký Raimondo thừa nhận tác động đối với ngành công nghiệp của họ xuất phát từ tình trạng dư thừa công suất toàn cầu do các bên thứ ba thúc đẩy. Tuyên bố chung cho biết, sự biến dạng do công suất dư thừa này gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với các ngành công nghiệp thép và nhôm – đây là những ngành định hướng thị trường của EU và Mỹ cũng như người lao động trong các ngành đó.

Họ nhất trí rằng vì Mỹ và các Quốc gia thành viên EU là đồng minh và đối tác, cùng chia sẻ lợi ích an ninh quốc gia cũng như nền kinh tế dân chủ, thị trường nên họ có thể hợp tác để thúc đẩy các tiêu chuẩn cao, giải quyết các mối quan tâm chung và buộc các nước như Trung Quốc – những người ủng hộ chính sách bóp méo thương mại phải giải trình.

Các cuộc thảo luận sẽ nhằm tìm ra các giải pháp, chẳng hạn như các biện pháp thương mại thích hợp vào cuối năm nay.

Mỹ sẽ duy trì mức thuế 25% đối với thép và 10% đối với nhôm, cũng áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Na Uy và Thụy Sĩ.

Trước đó, Chính quyền ông Trump đã trích dẫn các căn cứ an ninh quốc gia của Mỹ vào tháng 6 năm 2018 làm cơ sở cho việc áp thuế kim loại – các biện pháp mà các nhà sản xuất thép như Thyssenkrupp và Voestalpine cho biết họ bị ảnh hưởng.

EU phủ nhận việc xuất khẩu của mình gây ra bất kỳ mối đe dọa an ninh nào và đáp trả bằng cách áp thuế quan lên 2,8 tỷ euro (3,4 tỷ USD) các sản phẩm của Mỹ, bao gồm xe máy, rượu whisky và nước cam. Những thứ này cũng sẽ được giữ nguyên.

Trong tuyên bố chung, EU và Mỹ cho biết thêm: “Họ đồng ý thảo luận về việc giải quyết các mối quan tâm chung trong lĩnh vực này nhằm giải quyết công suất dư thừa thép và nhôm và triển khai các giải pháp hiệu quả, bao gồm các biện pháp thương mại thích hợp, để bảo tồn các ngành công nghiệp quan trọng của chúng ta. Để đảm bảo môi trường mang tính xây dựng nhất cho những nỗ lực chung này, họ nhất trí tránh những thay đổi về những vấn đề này ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại song phương .”

“Họ cam kết sẽ khẩn trương tham gia vào các cuộc thảo luận này để tìm ra giải pháp trước cuối năm nhằm chứng minh cách Mỹ và EU có thể giải quyết tình trạng dư thừa công suất, đảm bảo khả năng tồn tại lâu dài của các ngành công nghiệp thép và nhôm của khu vực, và củng cố liên minh dân chủ của hai bên. ”

Nguồn: Báo Công Luận

17/ Ngân hàng Thế giới cảnh báo về ảnh hưởng của đợt địch Covid-19 thứ tư với kinh tế Việt Nam

Ngày 17-5, Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam đã công bố báo cáo cập nhật tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 5-2021, trong đó, cảnh báo một số rủi ro đối với nền kinh tế nước ta do dịch Covid-19 bùng phát từ cuối tháng 4 tới nay.

Trong báo cáo, WB ghi nhận hầu hết các chỉ số kinh tế tháng 4 của Việt Nam đều ở mức tốt. Sản xuất công nghiệp tiếp tục đà tăng trưởng mạnh trong tháng 4 với chỉ số tăng 1,1% so với tháng 3 và tăng tới 24,1% so với cùng kỳ năm 2020. Cùng thời gian này, doanh số bán lẻ tăng 2,3% so với tháng 3, sau hai tháng giảm liên tiếp. Chỉ số giá tiêu dùng trong tháng 4 cũng được ghi nhận tăng 0,5% so với tháng 3, phản ánh sự phục hồi trong tiêu dùng của các hộ gia đình.

Về xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng hai con số so với cùng kỳ năm trước được ghi nhận trên tất cả các mặt hàng xuất khẩu chính, trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh nhất là nhóm máy móc. Thực tế này có sự đóng góp của tiến trình phục hồi kinh tế đang diễn ra tại Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Cũng theo WB, mặc dù vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có giảm trong tháng 4 – chỉ đạt 2,2 tỷ USD (thấp hơn 53% so với tháng trước), nhưng nhìn chung ổn định. WB cũng đánh giá cao tiến độ tiêm vắc xin phòng Covid-19 đã tăng tốc vào tháng 4, với 506.000 liều được tiêm, so với khoảng 50.000 liều vào cuối tháng 3.

Tuy nhiên, WB cảnh báo, Việt Nam đang trải qua đợt bùng phát dịch Covid-19 thứ tư từ cuối tháng 4-2021, buộc chính phủ phải nhanh chóng ứng phó bằng việc đóng cửa trường học và áp dụng các biện pháp hạn chế đi lại mới. WB nhận định thực tế này sẽ ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế trong nước, đặc biệt là các lĩnh vực du lịch, vận tải và bán lẻ.

Do đó, WB khuyến nghị, nếu cần duy trì hoặc thắt chặt các biện pháp hạn chế mới về y tế và đi lại, Chính phủ Việt Nam có thể cân nhắc một gói kích thích tài khóa mới, bao gồm một gói hỗ trợ với quy mô lớn hơn cho người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch.

Nguồn: Báo Hà Nội mới

18/ Bloomberg: Kinh tế thế giới gặp khó khăn về mọi thứ

Một năm trước, khi đại dịch xuất hiện đã đẩy các nền kinh tế rơi vào tình trạng khó khăn, người tiêu dùng hạn chế chi tiêu. Ngày nay, khi kinh tế trên đà phục hồi, các công ty lại đang gặp khó khăn vì giá nguyên liệu tăng vọt.

Từ các nhà sản xuất nệm, các nhà sản xuất ô tô, cho đến các nhà sản xuất lá nhôm đang mua nhiều nguyên liệu hơn mức họ cần để tồn tại với nhu cầu hàng hóa tăng chóng mặt.

Hoạt động mua và tích trữ của các doanh nghiệp đang đẩy chuỗi cung ứng đến bờ vực bị co hẹp. Tình trạng thiếu hụt, tắc nghẽn giao thông và giá cả tăng vọt đã làm dấy lên lo ngại rằng nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng sẽ gây ra lạm phát.

Đồng, quặng sắt và thép; ngô, cà phê, lúa mì và đậu nành; gỗ xẻ, chất bán dẫn, nhựa và bìa cứng để đóng gói… Tất cả đều tăng giá.

Hàng loạt sự cố với chuỗi cung ứng đã xảy ra từ đầu năm tới nay. Sự cố nghiêm trọng ở kênh đào Suez vào tháng 3 đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chuỗi cung ứng. Hạn hán đã tàn phá các loại cây nông nghiệp. Một đợt đóng băng sâu và mất điện hàng loạt đã quét sạch các hoạt động năng lượng và hóa dầu trên khắp miền Trung nước Mỹ trong tháng 2. Tin tặc đã đánh sập đường ống dẫn nhiên liệu lớn nhất ở Mỹ, khiến giá xăng lần đầu tiên lên trên 3 USD/gallon kể từ năm 2014. Hiện tại, đợt bùng phát Covid-19 lớn của Ấn Độ đang đe dọa các cảng lớn nhất của nước này.

 “Về cơ bản, những gì mọi người đang nói với chúng tôi là sẽ khó có được nguồn cung đến nơi phù hợp với nhu cầu và do đó, chúng tôi sẽ tiếp tục chứng kiến ​​một số đợt tăng giá 12 tháng tiếp theo”, Zac Rogers, Giám đốc quản lý chuỗi cung ứng Colorado State University cho biết.

Các phong vũ biểu nổi tiếng hơn đang bắt đầu phản ánh chi phí cao hơn cho các hộ gia đình và công ty. Chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ không bao gồm thực phẩm và nhiên liệu đã tăng vọt trong tháng 4 so với mức cao nhất kể từ năm 1982. Trừ khi các công ty chuyển chi phí đó cho người tiêu dùng và tăng năng suất, nếu không nó sẽ ăn vào biên lợi nhuận của họ.

Ngày càng có nhiều chuyên gia cảnh báo rằng, lạm phát chắc chắn sẽ tăng nhanh. Mối đe dọa đã đủ để gây chấn động đến các thủ đô, ngân hàng trung ương, nhà máy và siêu thị trên thế giới. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đang phải đối mặt với những câu hỏi mới về việc khi nào họ sẽ tăng lãi suất để ngăn chặn lạm phát và rủi ro chính trị được nhận thức đã đe dọa làm đảo lộn các kế hoạch chi tiêu của Tổng thống Joe Biden.

David Landau, Giám đốc sản phẩm của BluJay Solutions, một nhà cung cấp dịch vụ và phần mềm hậu cần có trụ sở tại Anh cho biết: “Bạn mang tất cả những yếu tố này vào và đó là môi trường chín muồi cho lạm phát đáng kể với đòn bẩy hạn chế”.

Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách đã đưa ra một số lý do khiến họ tin rằng áp lực lạm phát không vượt khỏi kiểm soát. Thống đốc Fed, Lael Brainard gần đây đã nói rằng các quan chức nên “kiên nhẫn mặc dù sự gia tăng tạm thời”.

Các đợt tăng giá mạnh gần đây một phần được cho là do so sánh với đợt giảm mạnh của một năm trước. Hơn nữa, doanh số bán lẻ của Mỹ đã bị đình trệ trong tháng 4 sau khi tăng mạnh trong tháng trước đó và giá hàng hóa gần đây đã giảm từ mức cao nhất trong nhiều năm.

Wolkin, Phó chủ tịch hoạt động của Colgate Mattress có trụ sở tại Atlanta cho biết: “Nó đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát, đặc biệt là trong tháng qua. Chúng tôi chưa bao giờ thấy bất cứ điều gì như thế này”.

Ngay cả các công ty đa quốc gia với hệ thống quản lý cung ứng kỹ thuật số và đội ngũ người giám sát chúng cũng đang cố gắng đối phó. Giám đốc điều hành của Whirlpool, Marc Bitzer nói với Bloomberg Television rằng, chuỗi cung ứng của họ đang “đảo lộn khá nhiều” và nhà sản xuất thiết bị này đang dần tăng giá.

Sự căng thẳng kéo dài đến tận sản lượng nguyên liệu thô toàn cầu và có thể vẫn tồn tại vì khả năng sản xuất nhiều hơn. Giá gỗ xẻ, đồng, quặng sắt và thép đều tăng trong những tháng gần đây do nguồn cung hạn chế do nhu cầu mạnh hơn từ Mỹ và Trung Quốc.

Dầu thô cũng đang tăng, giá nguyên liệu công nghiệp từ nhựa đến cao su và hóa chất cũng tăng theo. Một số sự gia tăng đã được đưa vào giá hàng hóa. Reynolds Consumer Products, nhà sản xuất giấy nhôm cùng tên và túi đựng rác Hefty đang lên kế hoạch tăng giá một đợt nữa và đây là lần thứ 3 trong năm nay.

Chi phí thực phẩm cũng đang tăng cao. Dầu ăn được tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới, dầu cọ đã tăng hơn 135% trong năm qua lên mức kỷ lục. Đậu nành lần đầu tiên đạt mức 16 USD/giạ kể từ năm 2012. Giá ngô kỳ hạn đạt mức cao nhất trong 8 năm trong khi giá lúa mỳ kỳ hạn tăng lên mức cao nhất kể từ năm 2013.

Một chỉ số của Liên hợp quốc về chi phí lương thực thế giới đã tăng trong tháng thứ 11 liên tiếp tính tới tháng 4/2021 lên mức cao nhất trong 7 năm. Giá lương thực đang ở mức tăng lâu nhất trong hơn một thập kỷ trong bối cảnh lo lắng về thời tiết và làn sóng thu mua cây trồng ở Trung Quốc đang thắt chặt nguồn cung và đe dọa lạm phát nhanh hơn.

Nguồn: Tin nhanh chứng khoán

19 Những khó khăn mới của xuất khẩu nông lâm thủy sản

Trong 4 tháng đầu năm 2021, giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt được tăng trưởng rất cao ở thị trường Châu Mỹ, tăng tới 56,7%; trong khi xuất khẩu sang liên minh châu ÂU (EU) đã ngừng tăng trưởng…

Dịch Covid-19 vẫn còn phức tạp ở khu vực Châu Âu, đang bùng phát mạnh tại Tây Á, Trung Á nên xuất khẩu nông lâm thủy sản sang những khu vực đó sẽ khó khăn, thậm chí nguy cơ suy giảm trong những tháng tới. Ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) chia sẻ với VnEconomy về những dự báo thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản.

Tình hình thị trường xuất khẩu nông lâm thủy của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2021 diễn biến như thế nào, thưa ông?

Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản 4 tháng đầu năm 2021 đạt 17,15 tỷ USD, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2020. Xét về mặt hàng, thì cao su, lâm sản, rau quả, sắn, chè, tiêu, thủy sản tiếp tục giữ được tăng trưởng cao về giá trị xuất khẩu, trong khi xuất khẩu gạo, điều, cà phê… đã giảm tốc hoặc quay lại tình thế khó khăn.

Nếu nhìn chung trong rổ các sản phẩm nông lâm thủy sản, thì riêng Mỹ đã chiếm tới 33% trong tổng giá trị xuất khẩu của toàn ngành hàng. Sở dĩ xuất khẩu sang Mỹ nói riêng, châu Mỹ nói chung đang tăng trưởng nhanh hơn ở các thị trường khác, là bởi khu vực này đang dần kiểm soát được dịch Covid-19. Trong khi, dịch Covid-19 vẫn còn phức tạp ở khu vực Châu Âu, đang bùng phát mạnh tại Tây Á, Trung Á nên nông lâm thủy sản sang những khu vực đó sẽ khó khăn, thậm chí suy giảm trong những tháng tới.

Tại thị trường Châu Âu, mặc dù nông lâm thủy sản đang được hưởng lợi từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – liên minh châu Âu (EVFTA), với thuế suất nhiều mặt hàng giảm mạnh, hoặc gỡ bỏ. Thế nhưng, giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản từ đầu năm đến nay không tăng, không chỉ do đứt gãy chuỗi cung ứng bởi dịch Covid-19 gây ra, mà còn vì thị trường này đưa ra nhiều quy định mới trong hàng rào kỹ thuật nhập khẩu, trong khi các doanh nghiệp Việt Nam chưa kịp cập nhật và  thay đổi để đáp ứng.

Ông cho biết những quy định mới mà thị trường châu Âu đặt ra đối với các mặt hàng nông lâm thủy sản cụ thể là gì?

EU đã thay đổi cách tiếp cận kiểm soát thực phẩm hỗn hợp nhập khẩu, với Quy định mới EU 2020/2236 có hiệu lực từ ngày 21/4/2021. Trước đây, EU quy định thực phẩm hỗn hợp có chứa trên 50% thành phần từ sản phẩm có nguồn gốc động vật thì áp dụng kiểm soát như thực phẩm có nguồn gốc động vật. Các loại thực phẩm hỗn hợp có chứa thành phần thực phẩm có nguồn gốc động vật nhỏ hơn 50% thì áp dụng như các quy định thực phẩm hỗn hợp có nguồn gốc thực vật.

Tất cả các sản phẩm tổng hợp có chứa sản phẩm động vật như sữa, trứng, thịt, thủy sản… phải kèm theo giấy chứng nhận kiểm dịch động vật hoặc giấy tự xác nhận của nhà sản xuất bổ sung, các sản phẩm từ sữa phải có chứng nhận xử lý nhiệt. Các thành phần có nguồn gốc động vật (trừ gelatin và collagen) được sử dụng để sản xuất một sản phẩm tổng hợp phải có nguồn gốc từ nước thứ ba với một kế hoạch kiểm soát dư lượng đã được phê duyệt cho các thành phần cụ thể.

Theo qui định mới của EU, sau ngày 21/4/2021, yêu cầu nhập cảnh sẽ không còn dựa trên tỷ lệ phần trăm của các thành phần có nguồn gốc từ động vật, mà dựa trên sức khỏe động vật hoặc nguy cơ sức khỏe cộng đồng liên kết với chính các sản phẩm tổng hợp đó.

Công cụ thông tin ghi nhãn thực phẩm mới trên toàn EU FLIS (Food Labelling Information System) là một công cụ thông tin ghi nhãn thực phẩm mới trên toàn EU. Hiện nay, phiên bản đầu tiên đang có trên trang web của Ủy ban châu Âu, chứa các quy tắc chung của Liên minh châu Âu về ghi nhãn thực phẩm đối với từng loại hàng hóa.

Dự kiến trong phiên bản tiếp theo, công cụ này sẽ được bổ sung các quy tắc ghi nhãn quốc gia bắt buộc áp dụng cụ thể cho các quốc gia thành viên khác nhau của EU. Đây là một công cụ hữu ích đề các doanh nghiệp có thể dễ dàng tìm ra những thông tin bắt buộc phải có trên bao bì.

Một quy định khác, từ ngày 1/4/2021, thực phẩm vượt quá giới hạn tối đa chất béo chuyển hóa sẽ không được bán trên thị trường EU Quy định mới này đặt ra giới hạn hàm lượng chất béo chuyển hóa, trừ chất béo chuyển hóa tự nhiên trong động vật, trong thực phẩm dành cho người tiêu dùng cuối cùng và thực phẩm dùng để cung cấp cho cơ sở bán lẻ, không được vượt quá 2 gam trên 100 gam chất béo. 

Trái cây và rau, củ, quả là những sản phẩm mang tính mùa vụ cao, nếu không xuất khẩu kịp thời dễ gây ra tình trạng phải đổ bỏ. Ông có thế nói gì về vấn đề này?

Giá trị xuất khẩu rau quả 4 tháng đầu năm 2021 đạt 1,35 tỷ USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2020. Trung Quốc đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu rau quả của Việt Nam với 64,7% thị phần; tăng 16,2% so với cùng kỳ năm 2020.

Chúng tôi dự báo, trong những tháng tới, tăng trưởng xuất khẩu hàng rau, củ, quả sẽ giảm tốc. Hiện nhiều loại trái cây ở miền Bắc đã và sắp bước vào thu hoạch rộ, như: mận, vải và sau đó sẽ là nhãn, na… Các sản phẩm này chủ yếu xuất khẩu sang thị trường truyền thống là Trung Quốc. Ngoài ra, xuất sang thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Mỹ.

Hiện chúng tôi làm việc với các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các đơn vị liên quan của các tỉnh có sản lượng vải lớn của khu vực phía Bắc (Bắc Giang, Hải Dương) về tổ chức, kiểm soát các hoạt động hỗ trợ kết nối tiêu thụ vải của địa phương.

Tới đây, chúng tôi sẽ chủ trì, tổ chức Hội nghị trực tuyến với các tham tán, Trưởng đại diện thương mại Việt Nam tại thị trường Trung Quốc bàn kế hoạch kết nối xuất khẩu rau củ quả sang thị trường Trung Quốc.  Đồng thời, sẽ phối hợp với các đơn vị của Bộ để chuẩn bị nội dung, chương trình làm việc của Bộ trưởng với Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam.

Nguồn: VnEconomy

Ông Nguyễn Quốc Toản – Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản.

20/ Chi phí logistics khó quay trở về giá cũ hậu Covid-19

Logistics sẽ thiết lập mặt bằng giá mới và lập lại “trật tự” chuỗi cung ứng.

Container bớt khan hiếm, giá cước vẫn khủng

Ngay từ tháng 11/2020, các doanh nghiệp xuất khẩu liên tục phản ánh không xuất khẩu được sang các thị trường chủ lực khi cước phí tăng gấp nhiều lần (từ 750-800 USD/container lên đến hơn 4.000 – 5.000 USD/container). Đại dịch COVID-19 tạo ra cuộc khủng hoảng container toàn cầu, nhất là khu vực Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ khi thiếu hụt container hai đầu.

Thời điểm đó, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP) phản ánh ngay cả khi giá tăng lên 10.000 USD/chuyến, gấp 10 lần so với trước, cũng không có đủ container và liên tục trì hoãn thời gian vận chuyển.

Điển hình Ấn Độ, dịch bệnh làm tê liệt hệ thống xếp dỡ hàng tại cảng, biển vì thiếu công nhân và ngân hàng giảm giờ làm việc.

“Hầu hết chủ tàu chọn giải pháp tăng cước để bù lỗ nặng, đội giá logistics lên cao. Ngoài ra, nhiều hãng tàu cũng mượn gió bẻ măng làm cho thị trường giá cước tăng vô kiềm tỏa, có chặng tăng 4-5 lần so với trước”, ông Tương nói.

Đến nay, container rỗng đã dễ kiếm hơn so với thời điểm trước Tết nhưng giá cước vận tải vẫn ở mức cao vì các hãng tàu không chịu giảm, phát sinh nhiều chi phí do dịch bệnh COVID-19.

Cụ thể, cước thuê container đi Mỹ hiện đạt mức 7.000-8.000 USD/container, tăng gấp đôi so với thời điểm chưa bùng phát dịch COVID-19.

Đội giá logistics, giảm tính cạnh tranh doanh nghiệp

Theo ông Phạm Tiến Hoài, Tổng giám đốc Hạnh Nguyên Logistics, chi phí logistics trong ngành nông sản Việt Nam hiện chiếm khoảng 30% giá thành sản phẩm, trong khi con số này tại Thái Lan chỉ 12,5% và con số bình quân toàn cầu là 14%.

“Chi phí cao đã làm mất lợi thế cạnh tranh so với các nước trong khu vực châu Á như Trung Quốc, Thái Lan, Philippines, Indonesia”, ông Hoài dẫn chứng, theo Saigon Times.

Chi phí logistics, giá nguyên liệu đầu vào tăng, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đang phải gồng mình gánh nợ, thiệt hại nặng nề.

Theo ông Võ Huy Hoàng, Tổng giám đốc Công ty Rau quả Bình Thuận không chỉ cho phí logistics tăng cao mà các tàu bè cũng bị ách tắc, lịch trình bị trì hoãn 15 ngày. Trong khi, các sản phẩm nông sản như thanh long, chuối, chôm chôm… không được phép trì hoãn vận chuyển quá 7 ngày.

“Chi phí vận tải tăng, thời gian vận chuyển chậm đã lấy đi 50% doanh thu của công ty. Để có thể sống sót qua đại dịch, chúng tôi buộc phải tăng giá sản phẩm, kéo theo số lượng khách hàng giảm. Tính cạnh tranh của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng 50-60%”, ông Hoàng cho biết.

Logistics sẽ thiết lập mặt bằng giá mới

Trước những biến động của giá thuê container xuất khẩu, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Phan Văn Chinh dự báo: “Giá cước đã giảm nhẹ song sẽ khó có thể quay về giá ban đầu. Chi phí logistics sẽ hình thành mặt bằng giá mới”. Doanh nghiệp XK cần chuẩn bị các phương án sản xuất, kinh doanh thích ứng với mặt bằng giá logistics mới.

Trao đổi với người viết, bà Ngô Tường Vy, Phó giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Trái cây Chánh Thu cho biết “đã thay đổi phương án kinh doanh, 30% xuất khẩu nông sản tươi và 70% sản phẩm chế biến, đông lạnh. Kết quả là doanh thu vẫn tăng trưởng 40-50%”.

Ông Nguyễn Tương, Phó Tổng Thư ký VLA cho biết Việt Nam cần đa dạng hóa chuỗi cung ứng và phương thức vận tải (đường sắt, đường không khi có thể) thay vì chỉ chủ yếu dựa vào vận tải biển như hiện nay với hơn 90% hàng hóa xuất nhập khẩu được thông qua cảng biển.

“Các doanh nghiệp cần chủ động trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng, mua bảo hiểm và kết nối chặt chẽ với các doanh nghiệp logistics nhằm tìm phương thức vận chuyển với chi phí cạnh tranh”, ông Tương nói.

Nghiên cứu của Cục Xuất nhập khẩu chỉ ra chi phí cho logistics trong lĩnh vực xuất khẩu chiếm 15-25%.

Nguồn: Tạp chí điện tử Kinh tế Chứng khoán Việt Nam

21/ Nông sản dù đã bảo hộ chỉ dẫn địa lý, vẫn có thể bị xâm hại

Tổng kết công tác năm 2020, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết lần đầu tiên số lượng chứng nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lý được cấp ở mức kỷ lục: 21 đơn. Như vậy, tính đến cuối năm 2020, Việt Nam đã bảo hộ 94 chỉ dẫn địa lý trong đó có 88 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam và 6 chỉ dẫn địa lý của nước ngoài.

Nông sản được bảo hộ vẫn bị mạo danh

Tại Đồng Nai, bưởi đường lá cam là một đặc sản gắn liền với cù lao Tân Triều. Năm 2012, bưởi Tân Triều được cấp chứng nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lý.

Ông Bùi Văn Đáng, Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Triều (huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai), cho biết cả xã hiện có gần 395 ha trồng bưởi, trong đó 70% là trồng bưởi đường lá cam (sản phẩm được cấp bảo hộ chỉ dẫn địa lý).

So với các giống bưởi khác, bưởi đường lá cam trồng ở Tân Triều có vị ngọt thanh, vỏ mỏng, tép bưởi mọng nước dù trọng lượng trái nhỏ hơn. Nhờ đó, dù năm 2020, khi rất nhiều vườn bưởi phải bán giá thấp, kêu gọi giải cứu… thì bưởi Tân Triều vẫn luôn được giá, ở mức từ 700.000-800.000 đồng/chục (bưởi Tân Triều vẫn giữ cách đếm một chục là 12 quả) nhưng vẫn không đủ bán.

Dẫu vậy, điều khiến cả nông dân và cơ quan quản lý ở địa phương này lo lắng là tình trạng nhiều người mang bưởi đường lá cam trồng ở vùng khác về cù lao Tân Triều để bán, dưới danh nghĩa bưởi Tân Triều. Thậm chí, mạo danh “bưởi Tân Triều” để dễ dàng đưa đi các địa phương khác tiêu thụ như TPHCM, Hà Nội…

“Đã là đặc sản thì phải trồng ngay tại địa phương đó. Với bưởi Tân Triều, phải trồng ngay tại cù lao này thì mới cho trái bưởi thơm ngon, mọng nước và có vị ngon đặc trưng nhất”, ông Đáng nói.

Cũng theo ông Đáng, dù biết việc này nhưng cơ quan chức năng vẫn chưa có biện pháp nào ngăn chặn hữu hiệu. Nhiều khách hàng lo ngại mua nhầm hàng nên đến mùa tết, thường phải vào tận vườn trồng, tự tay chọn bưởi.

Hay như gà đồi Yên Thế, cũng một thời là hình mẫu cho chăn nuôi hàng hóa quy mô lớn từ những năm 2006 với 7.000 hộ, trong đó có 2.000 hộ nuôi quy mô từ 1.000 con/lứa.

Từ năm 2001, nhãn hiệu “Gà đồi Yên Thế” được bảo hộ chỉ dẫn địa lý, sản phẩm có mặt tại hầu hết các siêu thị lớn của Hà Nội như Hapro, Metro, CO.OP Mart, Hiway… đối với gà giết mổ và gà lông tại các chợ đầu mối ở Hà Nội.

Thời điểm đó, tỉnh Bắc Giang cũng đã hình thành được chương trình hợp tác tiêu thụ sản phẩm với Hà Nội, giúp thu nhập của nông dân đạt từ 50-350 triệu đồng/năm.

Thế nhưng, do việc quản lý chất lượng sản phẩm và quy trình sản xuất không hiệu quả đã khiến mô hình này thất bại nặng nề. Giá bán sản phẩm này hiện giảm mạnh, có lúc giảm chỉ còn 35.000-40.000 đồng/kg, thị trường cũng bị thu hẹp, chủ yếu tiêu thụ ở các tỉnh vùng núi phía Bắc. Gà đồi Yên Thế vắng bóng ở hầu hết các siêu thị trên địa bàn Hà Nội.

Theo TS. Trịnh Văn Tuấn, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển hệ thống nông nghiệp (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam), nguyên nhân khiến mô hình gà đồi Yên Thế không phát triển được là do người chăn nuôi sử dụng giống gà mía lai có chất lượng trung bình, khối lượng cơ thể lớn (2,5-3 kg/con), tích mỡ và giống gà ri lai tạp, không phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của thị trường đô thị Việt Nam.

Bên cạnh đó, phương thức nuôi sử dụng chủ yếu thức ăn công nghiệp khiến giá thành cao dù thời gian chăn nuôi ngắn trong khi nhu cầu thị trường tiêu thụ Hà Nội chỉ ưa chuộng gà ri có khối lượng nhỏ hơn 1,5 kg/con.

Cách nào bảo vệ chỉ dẫn địa lý?

Theo TS. Trịnh Văn Tuấn, với sự đa dạng về điều kiện sinh thái, địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng, truyền thống và kinh nghiệm sản xuất của các dân tộc khác nhau nên khu vực nông thôn Việt Nam có lợi thế trong sản xuất và cung cấp nhiều sản phẩm nông nghiệp đặc sản địa phương.

Trong thời gian qua, Việt Nam cũng đã nỗ lực để sử dụng chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể như một công cụ quan trọng trong cuộc chiến chống lạm dụng và gian lận thương mại, nâng cao nhận thức của người tiêu dùng. Nhờ đó, ngày càng có nhiều sản phẩm nông nghiệp và nông thôn của Việt Nam được xây dựng thương hiệu.

Tuy nhiên, sau bảo hộ, vẫn có nhiều sản phẩm gặp khó khăn trong khai thác và phát triển thị trường, nhiều sản phẩm còn bị mạo danh không chỉ trên thị trường trong nước, ngoài nước mà ngay tại quê hương của sản phẩm đó.

Một trong những nguyên nhân khiến nhiều nông sản dần thất thế dù đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý là do việc lựa chọn sản phẩm bảo hộ chưa phù hợp, trong quá trình tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị còn tồn tại nhiều hạn chế, điểm yếu như sản xuất nhỏ lẻ, chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường tiêu thụ, chủ thể sản xuất có năng lực quản lý và tổ chức sản xuất yếu, sự liên kết giữa các bên tham gia chuỗi còn lỏng lẻo…

Theo ông Tuấn, để các sản phẩm quy mô nhỏ ở địa phương này có thể phát triển thành sản phẩm nổi tiếng, tiếp cận được thị trường tiêu thụ lớn và hướng đến xuất khẩu, chất lượng chính là yếu tố sống còn.

 “Có thể thấy qua ví dụ bưởi Đoan Hùng (tỉnh Phú Thọ). Sau khi được bảo hộ chỉ dẫn địa lý đã phát triển ồ ạt vùng sản xuất bằng việc đưa các giống bưởi lạ, ngoài quy định vào sản xuất. Hậu quả, chất lượng và uy tín của cả vùng sản phẩm suy giảm, người tiêu dùng quay lưng với “bưởi Đoan Hùng”, ông Tuấn nêu ví dụ.

Còn theo bà Phạm Thị Nhâm, Phó giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lâm Đồng, trong điều kiện hội nhập kinh tế sâu rộng như hiện nay, nông sản rất cần được bảo vệ, bảo hộ, trong đó, bảo hộ chỉ dẫn địa lý là một trong những công cụ bảo vệ hữu ích.

Thế nhưng, ngay tại Lâm Đồng, ngày càng có nhiều đơn khiếu nại, khiếu kiện của các doanh nghiệp, tổ chức liên quan tới việc xâm phạm, xâm hại quyền sở hữu trí tuệ cũng như bảo hộ chỉ dẫn địa lý.

Do đó, để phát huy giá trị của các chỉ dẫn địa lý tại địa phương này, Lâm Đồng đặc biệt chú trọng công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng sản phẩm đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh những sản phẩm đã được cấp chỉ dẫn địa lý. Qua đó, bảo vệ danh tiếng và thương hiệu các nhãn hiệu mang yếu tố địa danh đã được bảo hộ.

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn

BSA Tổng hợp

Chiêm ngưỡng fashion film Hòn ngọc Phương Nam từ NTJ